Hiển thị các bài đăng có nhãn Tác giả - Tác phẩm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tác giả - Tác phẩm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 27 tháng 12, 2021

Thơ Haiku Mùa Xuân Của Kobayashi Issa

Tác giả: Trần Đức Phổ & Kobayashi Issa

Kobayashi Issa (1763-1827)
Kobayashi Issa là một trong bốn bậc thầy về thơ Haiku của Nhật Bản. Ông sáng tác trên 20.000 bài Haiku. Dưới đây là một số bài thơ về mùa xuân của ông.
.
Thơ

1.
♦ Face of the spring moon--
about twelve years old,
I'd say.

♦ Khuôn ngà của vầng trăng xuân--
Tôi độ ước chừng
Tuổi mới mười hai.
.

2
♦ In spring rain
a pretty girl
yawning.

♦ Trong làn mưa xuân phất phơ
Có cô gái đẹp
Hững hờ ngáp suông.
.

3
♦ New Year's morning:
the ducks on the pond
quack and quack.

♦ Buổi sớm đầu xuân:
Trong ao bầy vịt
Không ngừng quác vang
.

4
♦ New Year's Day--
everything is in blossom!
I feel about average.

♦ Ngày đầu năm mới--
Vạn vật nở hoa
Lòng tôi dường cũng bình hòa an nhiên.
.

Trần Đức Phổ phỏng dịch
Nguồn tham khảo: My Poetic Side
Photo: @antonio_sbarra
 
 
 

 

Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2021

Bông Hồng Biệt Ly

Tác giả: Trần Đức Phổ & Frederick Peterson

THE SWEETEST FLOWER THAT BLOWS
by Frederick Peterson

The sweetest flower that blows
I give you as we part;
For you it is a rose;
For me it is my heart.

The fragrance it exhales
(Ah, if you only knew!)
Which but in undying fails,
It is my love of you.

The sweetest flower that grows
I give you as we part;
You think it but a rose;
Ah, me! it is my heart.
.
.
BÔNG HỒNG BIỆT LY

Bông hoa thương nhất nở rồi,
Chia tay tôi đã tặng người tôi thương
Với em chỉ một nụ hồng
Với tôi là cả tấm lòng hiến dâng

Hương thơm lan tỏa xa gần
(Ơ, em chỉ cảm có ngần ấy thôi!)
Mà trong bất diệt ngậm ngùi,
Tình yêu dành để trọn đời trao em

Màu hoa yêu sáng bừng lên,
Chia tay tôi đã tặng em làm quà
Không gì – em nghĩ - hồng hoa,
Ơ, riêng tôi biết đó là tim tôi!

Trần Đức Phổ tạm dịch 
 

 

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

10 Bài Thơ Hay Của Sara Teasdale

Tác giả: Trần Đức Phổ & Sara Teasdale


• Sara Teasdale (1884-1933)

Sara Teasdale là một nữ thi sĩ thơ trữ tình người Mỹ, tên tuổi của bà khá nổi tiếng lúc bà còn tại thế. Bà được sinh ra trong một gia đình trung lưu tại St. Louis, Missouri (Hoa Kỳ).
Phần lớn hình ảnh trong thơ của bà là những người phụ nữ phải chịu đựng nỗi bất hạnh trong cuộc sống hoặc sự bỏ rơi của người thân. Họ cũng phải đối mặt với thực tế, với cái chết của chính mình, với sự vỡ mộng; nhưng không phải là những người hoài nghi, ủy mị và tuyệt vọng. Thơ Teasdale gắn kết vẻ đẹp đạo đức và tinh thần của con người với sự hài hòa của thế giới tự nhiên. Thơ bà sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, hình ảnh sinh động, và giàu cảm xúc.
Bà là một phụ nữ cực kỳ nhạy cảm, có lối sống gần như ẩn dật. Teasdale bị trầm cảm vì thất vọng trong cuộc sống hôn nhân, và bà đã tự kết liễu cuộc đời mình ở tuổi 48.
.

1. Christmas Carol

The kings they came from out the south,
All dressed in ermine fine,
They bore Him gold and chrysoprase,
And gifts of precious wine.

The shepherds came from out the north,
Their coats were brown and old,
They brought Him little new-born lambs
They had not any gold.

The wise men came from out the east,
And they were wrapped in white,
The star that led them all the way
Did glorify the night.

The angels came from heaven high,
And they were clad with wings,
And lo, they brought a joyful song
The host of heaven sings.

The kings they knocked upon the door,
The wise men entered in,
The shepherds followed after them
To hear the song begin.

The angels sang through all the night
Until the rising sun,
But little Jesus fell asleep
Before the song was done.
.

BÀI CA MỪNG GIÁNG SINH

Các vị vua đến từ phương nam
Tất cả đều mặc áo lông thú lịch lãm
Họ mang cho Ngài đá quý và vàng
Những chai rượu vang tặng phẩm

Các bác chăn cừu đến từ phương bắc,
Áo khoác của họ sắc nâu và cũ hoắc;
Mang tặng Ngài cừu non mới sinh—
Không vàng cũng chẳng bạc

Các nhà thông thái đến từ phương đông,
Mặc chiếc áo choàng màu trắng như bông
Suốt cuộc hành trình ngôi sao chỉ lối
Làm cho đêm đen trở nên sáng hồng

Các thiên thần bay xuống từ Trời
Trên mình của họ là những đôi cánh
Đã đem đến bài ca mừng vui
Chủ toạ hát lên lanh lảnh

Các vị vua gõ vào cửa
Những nhà thông thái bước vào
Các bác chăn cừu theo sau
Bài ca đã được bắt đầu

Các thiên thần ca hát suốt đêm
Cho mãi đến lúc mặt trời lên
Nhưng Chúa Hài Đồng đã ngủ
Trước khi bài ca được ngừng.
.

2 Dusk In War Time

A half-hour more and you will lean
To gather me close in the old sweet way
But oh, to the woman over the sea
Who will come at the close of day?

A half-hour more and I will hear
The key in the latch and the strong, quick tread
But oh, the woman over the sea
Waiting at dusk for one who is dead!
.

KHI TÀN CUỘC CHIẾN

Khoảnh khắc nữa thôi người về đến
Cùng tựa vai nhau mộng xưa say
Nhưng ôi, thiếu phụ bên kia biển
Ai sẽ về bên lúc cuối ngày?

Khoảnh khắc nữa thôi em sẽ nghe
Chìa tra vào ổ, bước chân quen
Nhưng ôi, thiếu phụ bên kia biển
Chờ cỗ quan tài lúc nhá nhem!
.

3. There Will Come Soft Rains

There will come soft rains and the smell of the ground,
And swallows circling with their shimmering sound;
And frogs in the pools singing at night,
And wild plum trees in tremulous white;

Robins will wear their feathery fire,
Whistling their whims on a low fence-wire;
And not one will know of the war, not one
Will care at last when it is done.

Not one would mind, neither bird nor tree,
If mankind perished utterly;
And Spring herself, when she woke at dawn
Would scarcely know that we were gone..
.

NHỮNG CƠN MƯA PHÙN SẼ ĐẾN

Sẽ có những cơn mưa phùn đổ xuống
Chim én lượn ca, và đất toả hương
Hàng cây mận nở những chùm bông trắng
Ếch trong ao ca hát suốt đêm trường

Những chú Robins màu lông như lửa
Cất cao lời bên bờ giậu véo von
Chẳng ai thèm nghĩ về chiến tranh nữa,
Cũng chẳng hề lo nó hết hay còn

Chẳng ai quan tâm, dẫu chim muông, cây cỏ
Nếu loài người toàn bộ bị diệt vong
Và một sớm khi Nàng Xuân thức dậy
Chẳng biết chi, nên Nàng chẳng đau lòng
.

4. Barter

Life has loveliness to sell,
All beautiful and splendid things,
Blue waves whitened on a cliff,
Soaring fire that sways and sings,

And children’s faces looking up
Holding wonder like a cup.
Life has loveliness to sell,
Music like a curve of gold,

Scent of pine trees in the rain,
Eyes that love you, arms that hold,
And for your spirit’s still delight,
Holy thoughts that star the night.

Spend all you have for loveliness,
Buy it and never count the cost;
For one white singing hour of peace
Count many a year of strife well lost,

And for a breath of ecstasy
Give all you have been, or could be.
.

ĐỔI CHÁC

Đời nhiều thứ đáng yêu chờ bán
Tất cả đều tráng lệ, đẹp xinh
Sóng xanh trắng xoá đầu ghềnh
Ngọn lửa nhảy múa bay lên hát hò

Gương mặt của trẻ thơ đang ngước
Chứa bao nhiêu hạnh phúc diệu kỳ
Đời nhiều thứ đáng yêu chờ bán
Âm nhạc kia cũng sánh như vàng

Trong mưa, hương những cây thông
Ánh mắt âu yếm, và vòng tay yêu
Thêm tinh thần an vui, lành mạnh
Tính thiện lương lấp lánh như sao

Mua toàn thứ đáng yêu vào
Đừng nên suy tính xu hào thiệt hơn
Chỉ một khắc tâm hồn yên ổn
Xua tan đi thương tổn vạn ngày

Và cho cuộc sống đắm say
Trao đi tất cả gia tài cũng cam.
.

5. February Twilight

I stood beside a hill
Smooth with new-laid snow,
A single star looked out
From the cold evening glow.

There was no other creature
That saw what I could see—
I stood and watched the evening star
As long as it watched me.
.

HOÀNG HÔN THÁNG HAI

Tôi đứng ngẩn ngơ cạnh quả đồi
Mượt mềm lớp tuyết mới vừa rơi
Một ngôi sao lẻ đương nhìn trộm
Trong buổi hoàng hôn giá lạnh ngời

Vắng vẻ tuyệt nhiên không bóng người
Chẳng ai nhìn thấy, mỗi mình tôi -
Lặng im đứng ngắm vì sao ấy
Lâu lắm, như là nó ngắm tôi.
.

6. May

The wind is tossing the lilacs,
The new leaves laugh in the sun,
And the petals fall on the orchard wall,
But for me the spring is done.

Beneath the apple blossoms
I go a wintry way,
For love that smiled in April
Is false to me in May.
.

THÁNG NĂM

Gió thổi đinh hương bay tứ tung
Lá non dưới nắng khẽ reo mừng
Bên tường những cánh hoa vương vãi
Mà với em thì xuân dửng dưng

Dưới gốc cành mơ đang trổ hoa
Em đi trong lạnh lẽo, nhạt nhoà
Tháng Tư hạnh phúc mùa ân ái
Rồi tháng Năm về chợt xót xa.
.

7. I Am Not Yours

I am not yours, not lost in you,
Not lost, although I long to be
Lost as a candle lit at noon,
Lost as a snowflake in the sea.

You love me, and I find you still
A spirit beautiful and bright,
Yet I am I, who long to be
Lost as a light is lost in light.

Oh plunge me deep in love—put out
My senses, leave me deaf and blind,
Swept by the tempest of your love,
A taper in a rushing wind.
.

EM KHÔNG LÀ VẬT SỞ HỮU CỦA ANH

Em không là của anh, không mất hút trong anh
Không mất hút, mặc dù em mong được thế
Mất hút như ngọn nến cháy giữa ban trưa
Mất hút như bông tuyết rơi trên bể

Anh yêu em, và em vẫn thấy
Tâm hồn anh cao đẹp, sáng ngần
Nhưng em là em, người mong muốn vậy
Được như ánh đèn mất hút giữa nắng chan

Ôi, hãy nhấn chìm em thật sâu vào tình ái
Khiến cho em tê dại, điếc và loà
Hãy cuốn em vào bão tình anh đấy
Như ngọn nến con trong trận gió vút qua.
.

8. I Shall Not Care


When I am dead and over me bright April
Shakes out her rain–drenched hair,
Though you should lean over me broken-hearted
I shall not care.

I Shall have peace, as leafy trees are peaceful
When rain bends down the boughs,
And I shall be more silent and cold-hearted
Than you are now.
.

EM CHẲNG QUAN TÂM

Khi em chết, trời tháng tư sáng lạn
Rũ tóc mưa ướt đẫm chỗ em nằm
Dẫu khi đó trái tim anh vỡ vụn
Em đâu cần quan tâm.

Em bình yên như chiếc lá yên bình
Lúc mưa đổ làm oằn cong cành nhánh
Em càng lặng im, trái tim em giá lạnh
Hơn cả anh bây giờ.
.

9. The River

I came from the sunny valleys
And sought for the open sea,
For I thought in its gray expanses
My peace would come to me.

I came at last to the ocean
And found it wild and black,
And I cried to the windless valleys,
“Be kind and take me back!”

But the thirsty tide ran inland,
And the salt waves drank of me,
And I who was fresh as the rainfall
Am bitter as the sea.
.

DÒNG SÔNG

Tôi từ thung lũng đầy nắng
Tìm về với biển dang tay
Nghĩ rằng trùng khơi lớn rộng
Sẽ cho tôi bình yên đây

Cuối cùng đã về đến biển
Thấy toàn đen tối, nộ cuồng
Tôi gào kêu nơi cố lý
Đem tôi về lại quê hương

Nhưng nước triều dâng đuổi theo
Nuốt tôi vào miệng sóng dữ
Và tôi trong lành như thể
Cơn mưa. Thành biển chát chua.
.

10. The Kiss


Before you kissed me only winds of heaven
Had kissed me, and the tenderness of rain—
Now you have come, how can I care for kisses
Like theirs again?

I sought the sea, she sent her winds to meet me,
They surged about me singing of the south—
I turned my head away to keep still holy
Your kiss upon my mouth.

And swift sweet rains of shining April weather
Found not my lips where living kisses are;
I bowed my head lest they put out my glory
As rain puts out a star.

I am my love’s and he is mine forever,
Sealed with a seal and safe forevermore—
Think you that I could let a beggar enter
Where a king stood before?
.

CÁI HÔN CỦA ANH

Khi anh chưa hôn môi em
Chỉ có mưa nhẹ, gió êm thơm vào
Bây giờ có tình anh trao
Cái hôn của chúng lẽ nào em cho?

Những làn gió biển vu vơ
Rủ rê em với điệu hò phương nam
Em quay đầu, chẳng thèm nhìn
Thiêng liêng gìn giữ nụ tình trên môi

Tháng tư ngọt lịm mưa rơi
Vẫn không chạm được đôi môi nồng nàn
Vì e nụ hôn vinh quang,
Như sao mất dấu phũ phàng dưới mưa

Mình là tình nhân muôn thu
Niêm phong với nụ hôn đầu ngàn năm
Anh hãy thử nghĩ, rằng em
Để gã hành khất ngồi lên ngai vàng?
.

Trần Đức Phổ tổng hợp, tuyển chọn từ Internet, và phỏng dịch.
______
Tham Khảo:
- All Poetry
- Poetry Foundation
- Poem Analysis

 

 

Thứ Tư, 17 tháng 11, 2021

Đừng Khóc Bên Mộ Mẹ

Tác giả: Trần Đức Phổ & Mary Elizabeth Frye

Lời Dẫn

Thi phẩm "Do Not Stand at My Grave and Weep"
của Mary Elizabeth Frye, có thể nói là một bài thơ nhân ái nhất trong muôn triệu bài thơ. Tác giả mượn lời một người mẹ đã khuất để an ủi nỗi đau khổ cho những người thân thuộc còn sống. Theo Wikipedia thì bài thơ đã được dùng để đọc trong những buổi tang lễ, viết trên thiệp chia buồn suốt sáu thập niên qua.

Tác phẩm có 2 hoặc 3 dị bản và có hai tác giả tự nhận là thơ của mình.
Một là Clare Harner Lyon (1909-1977), với tựa đề "Immortality" (Bất Tử) với bút hiệu khuê nữ của bà là Harner, đăng trong số báo tháng 12, 1934 của tạp chí thơ The Gypsy.
Người thứ hai chính là Mary Elizabeth Frye, một bà chủ tiệm bán hoa và nội trợ; người mà năm 1998 được công nhận chính thức là tác giả đã viết bài thơ trên vào năm 1932. 

Dưới đây là bài thơ của Mary Elizabeth Frye, phiên bản thuộc sở hữu cộng đồng.
.

🎀 DO NOT STAND AT MY GRAVE AND WEEP
by Mary Elizabeth Frye (1905-2004)

Do not stand at my grave and weep,
I am not there, I do not sleep.
I am in a thousand winds that blow,
I am the softly falling snow.
I am the gentle showers of rain,
I am the fields of ripening grain.
I am in the morning hush,
I am in the graceful rush
Of beautiful birds in circling flight,
I am the starshine of the night.
I am in the flowers that bloom,
I am in a quiet room.
I am in the birds that sing,
I am in each lovely thing.
Do not stand at my grave and cry,
I am not there. I do not die.

🇨 This poem is in the public domain.
.

🎀 ĐỪNG KHÓC BÊN MỘ MẸ

Đừng đứng bên mộ khóc than
Mẹ không say ngủ miên man nơi này
Mẹ là muôn đợt gió bay
Là bông tuyết trắng miệt mài nhẹ rơi
Là cơn mưa bụi đầy trời
Là đồng lúa chín vàng tươi một màu
Mẹ là cánh chim lướt mau
Bay vòng buổi sớm đón chào bình yên
Mẹ là ánh sao đêm đêm
Là bông hoa nở, là miền tịch liêu
Mẹ trong cả tiếng chim kêu
Và trong mỗi vật thân yêu ở đời
Đừng khóc bên mộ con ơi,
Mẹ không ở đó, đời đời bên con!

Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 

Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2021

Thơ Đỗ Mục

Tác giả: Trần Bảo Kim Thư

I. Tiểu sử Đỗ Mục
 
Đỗ Mục 杜牧 (803-853) tự Mục Chi 牧之, hiệu Phàn Xuyên 樊川, người Vạn Niên, quận Kinh Triệu (nay là Trường An, tỉnh Thiểm Tây). Ông là nhà thơ nổi tiếng của Trung quốc thời Vãn Đường.
.

II. Thơ

1, 泊秦淮

煙籠寒水月籠沙,
夜泊秦淮近酒家。
商女不知亡國恨,
隔江猶唱後庭花。


Bạc Tần Hoài

Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng “Hậu Đình Hoa”.
.

Bài dịch:
BẾN TẦN HOÀI

Khói loang nước lạnh, trăng loang cát
Thuyền đậu bến sông, quán rượu gần
Ca nữ biết chi hờn nước mất
Khúc “Hậu Đình Hoa” mãi hát vang
.
.

2, 題烏江亭

勝敗兵家事不期,
包羞忍恥是男兒。
江東子弟多才俊,
捲土重來未可知。
.

Đề Ô Giang Đình

Thắng bại binh gia sự bất kỳ
Bao tu nhẫn sỉ thị nam nhi
Giang Đông tử đệ đa tài tuấn
Quyển thổ trùng lai vị khả tri.
.

Bản dịch:
ĐỀ ĐÌNH SÔNG Ô

Thắng bại là thường chuyện chiến chinh
Làm trai nhẫn nhục chẳng ô danh
Giang Đông con cháu đều hào kiệt
Đế nghiệp ngày sau có lẽ thành?
.

3. 獨柳

含煙一株柳,
拂地搖風久。
佳人不忍折,
悵望回纖手。
.

Độc Liễu

Hàm yên nhất châu liễu,
Phất địa dao phong cửu.
Giai nhân bất nhẫn chiết,
Trướng vọng hồi tiêm thủ.
.
.

Bản dịch:
CÂY LIỄU CÔ ĐỘC

Khói sương vây bóng liễu
Tha thướt những tua dài
Người đẹp không nỡ bẻ
Buồn, ngắm rồi thu tay
.
.

4. 江南春

千里鶯啼綠映紅,
水村山郭酒旗風。
南朝四百八十寺,
多少樓臺煙雨中。
.

Giang Nam Xuân

Thiên lý oanh đề lục ánh hồng,
Thuỷ thôn sơn quách tửu kỳ phong.
Nam triều tứ bách bát thập tự,
Đa thiểu lâu đài yên vũ trung?
.

Bản dịch:
MÙA XUÂN GIANG NAM

Oanh hót, hồng chen biếc dặm dài
Thôn sông thành núi quán cờ bay
Bốn trăm tám chục chùa Nam quốc
Trong khói mưa giăng mấy điện đài?

Trần Bảo Kim Thư phỏng dịch 
 


 

Thứ Hai, 4 tháng 10, 2021

THƠ MATSUO BASHO


1 Sơ lược tiểu sử Matsuo Bashō (1644-1694)


Matsuo Bashō là nhà thơ Nhật Bản nổi tiếng nhất thời Edo. Ông được biết đến vì đã có công đóng góp một cách quyết định vào sự phát triển của thơ trữ tình thông qua thể loại thơ Haiku. Mặc dù xuất phát từ những thể thơ có sẵn ở Nhật Bản, nhưng HaiKu đã đổi mới một cách sâu sắc về hình thức và nội dung. Lý tưởng nghệ thuật của Bashō được thể hiện ở việc vượt qua những cảm xúc cá nhân, và đồng nhất hoàn toàn giữa con người với thiên nhiên, được mô tả bằng những hình ảnh độc đáo, lấy cảm hứng từ những yếu tố của thực tế hàng ngày và tầm thường. Nhật ký du lịch của Bashō cũng nổi tiếng, về việc khám phá lại những địa điểm được văn học ca tụng trong quá khứ; trong số những tác phẩm quan trọng nhất, Oku no hosomichi  - The Narrow Road to Deep North -  (“Con đường hẹp về phía bắc”), kết quả của sự kết hợp hoàn hảo giữa văn xuôi và thơ.

 

2 Thơ

 

· 月早し / 梢わ雨を / もちながら
Tsuki hayashi / kozue wa ame wo / mochinagara

· Between branches / wet with rain / the fleeting moon

 

· Giữa cành cây đẫm nước mưa
Vầng trăng ẩn hiện, đong đưa phiêu bồng

 

·古池や / 蛙飛び込む / 水の音
Furuikeya  / Kawazu tobikomu / Mizu no oto

· Old pond  / a frog jumps in / the sound of water


· Cái ao cũ, lặng yên

Một con ếch hốt nhiên nhảy vào

Tiếng nước xao

 

 

· 春の海 / ひねもすのたり / のたりかな

Haruno / umi Hinemosu / Notari Notarikana

 

· Spring ocean / Swaying gently / All day long.

 

· Biển đang độ tuổi xuân thì

Rập rình sóng lượn vân vi

Suốt ngày

 

 

· 閑けさや / 岩にしみいる / 蝉の声

Shizukesa ya/ Iwa ni shimiiru/ Semi no koe

 

· Oh, tranquility! / Penetrating the very rock, / A cicada’s voice.

 

· Ô, tĩnh lặng!

Xuyên qua núi đá

Tiếng ve sầu

 


· 一家に / 遊女もねたり / 萩と月

Ikka ni / yūjo mo ne tari / hagi to tsuki

 

· Under the same roof / prostitutes were sleeping / Bush clover and the moon

 

· Chung vòm quán trọ đêm nay

Gái làng chơi đã ngủ say vài nàng

Hoa hồ chi và chị Hằng



· 夏草や / 兵どもが / 夢の跡

Natsu kusa ya / Tsuwamono domo ga / Yume no ato

 

· The summer grasses / All that remains / Of warriors’ dreams.

 

· Cỏ mùa hè

Dấu tích xanh

Mộng mơ của những chiến binh năm nào


 

·俤や / 姥ひとり泣く / 月の友

Hakanage ya / Oba hitori naku / Tsuki no tomo

· Really fragile / The old mother cries alone. / The friend of the moon

 

· Mỏng tan tiếng khóc mẹ già

Trong niềm hiu quạnh

Bạn là vầng trăng

 

 Trần Đức Phổ tổng hợp và phỏng dịch từ nguồn Internet.




Nguồn tham khảo:

- Masterpieces of Japanese Culture

- The Life and Influence of Matsuo Bashō


--
tranducpho

Chủ Nhật, 5 tháng 9, 2021

Thơ Ishikawa Takuboku

 

1. Tiểu sử Ishikawa Takuboku (1886 – 1912)

Ishikawa Takuboku là một nhà thơ người Nhật Bản nổi tiếng đầu thế kỷ 20. Ông được sinh ra ở Iwate Prefecture ngày 20 tháng 2 năm 1886, trong một ngôi chùa. Sau đó, gia đình ông chuyển đến Shibutami khi ông mới một tuổi.
Takuboku là bút danh; tên thật là Hajime. Năm 1905, lúc ông 19 tuổi đã cho xuất bản tập thơ あこがれ (Yearning – Khao Khát).
Takuboku được nhớ đến nhiều nhất với thể thơ Tanka, một thể thơ bản địa lâu đời của Nhật Bản. Tanka — nghĩa đen là “bài thơ ngắn” — gồm 31 âm tiết, có từ thế kỷ thứ 8.
Ishikawa Takuboku mất vào ngày 13 tháng 4 năm 1912 ở tuổi 27, vì bệnh lao phổi. Ông để lại cho đời sau 2 tập thơ chính:

- A Handful of Sand, xuất bản năm 1910
- Sad Toys, được in sau khi ông mất.
.
 
2 Thơ 
(Nguyên tác tiếng Nhật; Trần Đức Phổ phỏng dịch sang tiếng Việt từ bản tiếng Anh của Roger Pulvers):
 
たはむれに母を背負《せお》ひて
そのあまり軽《かる》きに泣きて
三歩あゆまず
.
I lifted my mother onto my back.
She was so light I wept
Stopped dead after three steps.
.
Đưa vai cõng mẹ lên lưng
Nhẹ tênh! Con trẻ rưng rưng lệ buồn
Ba bước chết lặng trong hồn
.
 
その頃は気つかざりし
仮名違いの多きことかな
昔の恋文
.
There are so many spelling mistakes
In those old love letters.
I never noticed until now
.
Biết bao nhiêu lỗi ngôn từ
Trong thơ tình cũ bây giờ nhận ra
Vô tư những tháng ngày xưa
.
 
ふるさとの訛なつかし
停車場の人ごみの中に
そを聴きにゆく
.
I slip into the crowd
Just to hear the accent
Of my faraway home town.
.
Chen vào trong đám người đông
Để nghe giọng nói của đồng hương tôi
Quê nhà giờ đã xa xôi!
.
 
子を負ひて
雪の吹き入る停車場に
われ見送りし妻の眉かな
.
My wife came with our daughter on her back.
I caught sight of her eyebrows
Through a blanket of snow.
.
Vợ tôi cõng con sau vai
Tôi nhìn chỉ thấy đôi mày thanh thanh
Xuyên qua lớp tuyết giăng mành 
 
September 5, 2021
Trần Đức Phổ
___________
Nguồn tham khảo:
- Wikipedia: Ishikawa Takuboku
- The Life and Poetry of Ishikawa Takuboku
 
Chân dung Ishikawa Takuboku