Thứ Năm, 31 tháng 8, 2023

Người Đẹp Đứng Đâu Cũng Đẹp

 

Mỹ nhân đứng dưới đào hoa
Hay cạnh gốc dừa cũng chẳng khác chi!
 

 

Nông Trại Súc Vật

 Tú Điếc


Thủ đô bò nhiều lắm
Hơn nông trường Điện Biên
Anh Hồ Giáo còn sống
Về Hà Nội mà chăn!
 
Bò nhiều như tiến sĩ
Đủ thứ hạng thấp cao
Thịt thơm ngon đặc vị
Thật đáng để tự hào!
 
Đất lành bò sinh nở
Cũng là lẽ đương nhiên
Thủ đô thành Nông Trại
Súc Vật George Orwell!
 
28/8/2023
 

 

Trump’s Mug Shot

 Tú Điếc phóng tác theo “Snowdrops” của Louise Gluck


Các ngươi có biết ta là ai, ta sống như thế nào không?
Các ngươi biết tuyệt vọng, thì biết
đảng Biden-Obama nghĩa là gì.
 
Ta đã không mong chờ được tự do ra ứng cử
những bản cáo trạng vô lối đè nặng lên ta
ta không mong chờ lũ quan tòa còn chút lương tri sáng suốt
để cảm nhận sự cản trở bầu cử thối nát
ta có khả năng trở lại làm tổng thống lần nữa,
xin nhớ rằng sau một thời gian quá lâu,
làm thế nào để được thắng cử lần nữa
trong làn ánh sáng đăng quang
của một ngày đầu năm 2025—
 
sợ hãi, không, bây giờ ta đang ở cùng các ngươi
chiến đấu, ừ, niềm vui mạo hiểm
 
trong làn gió tươi tắn của trời đất mới.
 
29/8/2023

Ảnh: Copy trên Net
 

 

Chủ Nhật, 27 tháng 8, 2023

Hoa Diên Vĩ Dại

Trần Đức Phổ phỏng dịch

THE WILD IRIS là một thi phẩm hay nhất, nhì của nhà thơ đoạt giải Nobel năm 2020, Louise Gluck. Chủ đề của bài thơ là cái chết và sự tái sinh được mô tả bằng lối ẩn dụ phức tạp và sâu sắc qua góc nhìn của loài hoa diên vĩ. Với phong cách làm thơ kiệm lời, không dùng liên từ để chuyển ý nên bài thơ không dễ dàng để hiểu chút nào, dù cho ngôn ngữ trong bài là từ ngữ thông dụng hằng ngày. Bởi thế, tôi chỉ dịch đại khái theo sự cảm nhận. Nói như nhà văn Võ Phiến là tôi mượn bộ xương cá nguyên tác, rồi phết thêm hồ và giấy màu xanh, đỏ làm thành con cá cho người Việt mình (những ai không đọc được tiếng Anh) thưởng thức, ngon dở xin chư vị quân tử rộng lòng bỏ qua.
.

 
 
THE WILD IRIS
By Louise Gluck 
 
At the end of my suffering
there was a door.
 
Hear me out: that which you call death
I remember. 
 
Overhead, noises, branches of the pine shifting.
Then nothing. The weak sun
flickered over the dry surface.
 
It is terrible to survive
as consciousness
buried in the dark earth.
Then it was over: that which you fear, being
a soul and unable
to speak, ending abruptly, the stiff earth
bending a little. And what I took to be
birds darting in low shrubs.
 
You who do not remember
passage from the other world
I tell you I could speak again: whatever
returns from oblivion returns
to find a voice:
 
from the center of my life came
a great fountain, deep blue
shadows on azure seawater.
.
 
HOA DIÊN VĨ DẠI 
 
Nơi tận cùng sự khổ đau của tôi
có một cánh cửa
 
Nghe tôi này: nơi ấy các bạn gọi là địa ngục
Tôi nhớ là thế.
 
Trên cao, có những tiếng động, cành cây thông chuyển mình.
Rồi im lặng. Ánh nắng yếu ớt
Chiếu lấp lánh trên mặt đất khô cằn.
Thật khủng khiếp, để tồn tại
ý thức phải chôn vùi trong lòng đất đen
Thế là chấm hết: điều đó làm các bạn sợ hãi, linh hồn
không thể thốt nên lời, kết thúc đột ngột, mặt đất cứng
vênh lên một ít. Và tôi biến thành
những chú chim chao liệng nơi lùm bụi thấp.
 
Các bạn không còn nhớ
con đường đến từ thế giới khác
tôi kể các bạn nghe, tôi có thể nói thêm lần nữa: bất cứ thứ gì
quay về từ trong sự quên lãng
quay về tìm lại tiếng nói:
 
y như từ giữa lòng hoa diên vĩ hiện ra
dòng suối nguồn xanh thẳm
soi bóng vào vùng biển mặn xanh trong.
 
21/8/2023

Snowdrops

Trần Đức Phổ phỏng dịch

Bài thơ “Snowdrops” của Louise Gluck được nhiều dịch giả dịch sang tiếng Việt với những nhan đề như “Hoa xuyên tuyết”, “Hoa tuyết điểm”. Theo thiển ý, dịch như thế là rất hay, nhưng quá hoa mỹ. Tôi xin được phép dịch theo mặt chữ là HOA GIỌT TUYẾT cho hợp với tinh thần bình dị của nguyên tác. Theo tôi, Louise Gluck thích dùng từ ngữ bình thường, nhưng chuẩn xác để diễn tả ý thơ hàm xúc, sâu sắc chứ không chuộng cách đánh bóng từ ngữ. Để hiểu rõ hơn nội dung bài thơ, xin lược thuật về loài hoa này. 
 
Snowdrops là một loài hoa nở sớm nhất vào mùa xuân ở những miền đất lạnh như Bắc Âu, Bắc Á, và Bắc Mỹ. Cái tên Snowdrop được ghép lại từ cách goi của tiếng Anh cổ: snow drop. Nó có tên như vậy là do hình dạng của hoa trông giống một cái chuông nhỏ, trắng muốt như tuyết treo trên chóp cọng hoa mảnh dẻ. Đây là loại hoa có thể mọc xuyên qua lớp tuyết để nở hoa sớm nhất vào mùa xuân.
Loài hoa này là tượng trưng cho sự hồi sinh của vạn vật sau những tháng mùa đông khắc nghiệt. Tác giả đã sử dụng hình ảnh mùa đông và hoa giọt tuyết để nói lên khả năng kỳ diệu của con người, đó là vượt qua mọi nỗi bất hạnh, khổ đau, mất mát để tìm lại niềm vui và hạnh phúc. Nhiều người cho rằng đây là một bài thơ bi quan, nhưng tôi lại nghĩ tác phẩm có công hiệu như liều thuốc tăng lực cho những ai đang gặp hoàn cảnh nghiệt ngã.
.

 
 
SNOWDROPS
by Louise Gluck 
 
Do you know what I was, how I lived? You know
what despair is; then
winter should have meaning for you.
 
I did not expect to survive,
earth suppressing me. I didn't expect
to waken again, to feel
in damp earth my body
able to respond again, remembering
after so long how to open again
in the cold light
of earliest spring—
 
afraid, yes, but among you again
crying yes risk joy
 
in the raw wind of the new world.
.
 
HOA GIỌT TUYẾT 
 
Các ngươi có biết ta là gì, ta sống như thế nào không?
Các ngươi biết tuyệt vọng, thì biết
ý nghĩa của mùa đông.
 
Ta đã không mong chờ được sống sót
mặt đất đè nặng lên ta
ta không mong chờ thức dậy lần nữa
để cảm nhận trong vùng đất ẩm ướt
cơ thể ta có khả năng hoạt động trở lại,
xin nhớ rằng sau một thời gian quá lâu,
làm thế nào để nở ra lần nữa
trong làn ánh sáng lạnh lẽo
của một ngày đầu xuân—
 
sợ hãi, ừ, nhưng bây giờ ta đang ở cùng các ngươi
khóc than, ừ, niềm vui mạo hiểm
 
trong làn gió tươi tắn của trời đất mới.
 
24/8/2023

Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2023

Hoa Cam Giả

Trần Đức Phổ phỏng dịch

Mock Orange là loài cây bụi, có hoa màu trắng như sữa. Loại hoa này hương thơm như mùi cam, nhưng không hề kết trái. Louise Gluck đã lấy tên hoa này đặt tựa đề cho một tác phẩm rất nổi tiếng của bà. Nội dung bài thơ nói về tâm trạng chán chường trong chuyện ái ân của một người phụ nữ, trong một đêm trăng sáng, ngoài vườn hoa cam giả đang nở, thoang thoảng mùi hương đưa vào phòng. Một cuộc ái ân đầy bất thường (hay rất bình thường?) không có lời chuyện trò tâm tình, không có sự gắn kết của đôi tâm hồn trong cuộc, và không hy vọng đơm hoa kết trái về sau.
Dưới góc nhìn và ngòi bút của Gluck đã cho chúng ta thấy nỗi thất vọng, bất mãn cùng cực của phụ nữ đối với nam giới, người đang thống trị họ. Bên cạnh đó nhà thơ cũng đã mạnh dạn lên tiếng tố cáo sự giả dối đang tràn ngập cả thế gian, chẳng đem lại được lợi ích gì như loài hoa cam giả.
.
 
 
 
MOCK ORANGE
By Louise Glück
 
It is not the moon, I tell you.
It is these flowers
lighting the yard.
 
I hate them.
I hate them as I hate sex,
the man’s mouth
sealing my mouth, the man’s
paralyzing body—
 
and the cry that always escapes,
the low, humiliating
premise of union—
 
In my mind tonight
I hear the question and pursuing answer
fused in one sound
that mounts and mounts and then
is split into the old selves,
the tired antagonisms. Do you see?
We were made fools of.
And the scent of mock orange
drifts through the window.
 
How can I rest?
How can I be content
when there is still
that odor in the world?
Source: The First Four Books of Poetry (The Ecco Press, 1995)
.
 
HOA CAM GIẢ 
 
Không phải là mặt trăng, tôi nói với bạn.
Chính những bông hoa ấy
rọi sáng cái sân 
 
Tôi ghét chúng.
Tôi ghét chúng như ghét tình dục,
cái miệng gã đàn ông
dán chặt vào miệng tôi, cơ thể
gã đàn ông nằm bất động—
 
và tiếng rên luôn thóat ra
thấp kém, nhục nhã
tiền đề của hợp hoan— 
 
đêm nay trong tâm trí tôi
tôi nghe câu hỏi và theo đuổi câu trả lời
hợp nhất trong một thanh âm
nó rướn lên, rướn lên, và rồi tách ra làm hai bản thể cũ xưa
những đối kháng mệt mỏi. Bạn thấy chưa?
Chúng ta đã bị lừa.
Và mùi hoa cam giả
len lỏi qua cửa sổ.
 
Làm thế nào tôi có thể nghỉ ngơi?
Làm thế nào tôi có thể hài lòng
khi vẫn còn
cái mùi kia trên thế gian?
 
17/8/2023
 

 

Nhận Lỗi Kiểu Bộ Trưởng

 Điếc

Nhận lỗi kiểu ni thật đúng là
Chúng ông bố cái lũ dân đa
Bọn bây ấu trĩ nên không hiểu
Bộ Dục cao thâm của nước nhà!
 

 

Thứ Ba, 15 tháng 8, 2023

Chuyện Tào Lao

 Tú Điếc

Một ông quan lớn giành thảm đỏ với thượng khách quốc tế, báo chí, truyền thông, nghệ sĩ... im re, không dám có nửa chữ bình luận. Thế mà một cô hoa hậu vừa đăng quang mở miệng ba hoa đôi điều đã cô vô vàn nhà báo, nghệ sĩ, truyền thông... chê bai, trách cứ. Lập ra hội nhóm anti-fan có cả nửa triệu người tham gia. Đúng là cách cư xử thượng đội hạ đạp. Thế niên Tú Điếc có thơ rằng:
 
Thiên hạ ngày nay nghĩ cũng kỳ
trên thì bại hoại, dưới sân si
quan to giành thảm im thin thít
nàng hậu ba hoa lãnh bấc chì!
 
Bổ sung bài tứ tuyệt cũ cho tấm hình:
 
Tướng quốc Mã Lai đến xứ ta
Ô hô, ông Thủ lại nằm nhà
Sai anh bộ trưởng ra chào đón
Thảm đỏ anh giành bước đủng đa!
 
7/8/2023
 

 
 
 

Nhan Sắc

Trần Đức Phổ

Em chưa từng thi nhan sắc
Vẫn giành được giải nguyên khôi
Và là phụ nữ đẹp nhất
Của riêng chỉ một mình tôi
 
Nụ cười chẳng làm đổ nước
Cũng đã đắm say suốt đời
Ánh mắt chẳng là tia chớp
Cũng làm trái tim rạng ngời
 
Em là cơn mưa mùa hạ
Trên vùng đất hoang khô cằn
Em là nắng mai trên lá
Cho giọt sương tròn long lanh
 
Em như trái sim vừa chín
Hoa đồng, gió nội còn vương
Tôi, kẻ giang hồ may mắn
Vin cành với cả yêu thương.
 
9/8/2023
 
 


Rẻ

 

Một đem một ngàn đô la
Cái lon như thế quả là rẻ cho
Có tiền ai dễ làm ngơ
Các ông bần sĩ giả vờ thanh cao!
 
Điếc
 

 

Ruộng Tốt

 

Tấtc ruộng ngã ba đắt tựa vàng
Cấy cày là những kẻ giàu sang
Đất tơi màu mỡ thêm nhiều nước
Ruộng tốt sao đành mãi bỏ hoang?
 
Điếc
 

 

Con Nước Lớn, Con Nước Ròng

 Trần Đức Phổ phỏng dịch


 

THE TIDE RISES, THE TIDE FALLS
By Henry Wadsworth Longfellow
 
The tide rises, the tide falls,
The twilight darkens, the curlew calls;
Along the sea-sands damp and brown
The traveller hastens toward the town,
And the tide rises, the tide falls.
 
Darkness settles on roofs and walls,
But the sea, the sea in the darkness calls;
The little waves, with their soft, white hands,
Efface the footprints in the sands,
And the tide rises, the tide falls.
 
The morning breaks; the steeds in their stalls
Stamp and neigh, as the hostler calls;
The day returns, but nevermore
Returns the traveller to the shore,
And the tide rises, the tide falls.
.
 
CON NƯỚC LỚN, CON NƯỚC RÒNG 
 
Con nước lớn, con nước ròng
Hoàng hôn dần xuống, chim muông gọi đàn
Dọc theo bờ cát nâu vàng
Một người lữ khách vội vàng về thôn
Con nước lớn, con nước ròng 
 
Màn đêm ngự trị trên từng mái hiên
Nhưng trong tiếng gọi biển đêm;
Những con sóng nhỏ, dịu mềm, sủi tăm
Xóa đi trên cát dấu chân
Con nước lớn, con nước ròng
 
Bình minh ngựa hí sẵn sàng yên cương
Xa phu giục giã lên đường;
Tháng ngày trở lại, nhưng không bao giờ
Quay về, lữ khách bên bờ thùy dương
Con nước lớn, con nước ròng.
 
13/8/2023

Ngậm Miệng

Nàng hậu nói xàm có chết ai?
Cớ gì ném đá chẳng ngơi tay
Bao nhiêu chánh án gieo oan khuất
Miệng lại ngậm tăm, quá đỗi hài!

Tú Điếc 



Chủ Nhật, 6 tháng 8, 2023

Tiếng Ve Sầu

 Trần Đức Phổ


Lâu lắm dường quên khúc nhạc hè
Chiều nay bỗng trỗi giọng ve ve
Một trời hoa bướm ngày xưa cũ
Theo tiếng râm ran hiện trở về
 
Những buổi hạ nồng tôi thẩn thơ
Lang thang nơi vườn vắng hàng giờ
Mồ hôi thánh thót theo chân bước
Theo tiếng ve sầu dưới nắng trưa
 
Trên những cành xanh mít, ổi, xoài…
Lũ ve mơ mộng hát mê say
Gió Lào dường cũng thôi bỏng rát
Cái nắng miền Trung bớt gắt gay
 
Rồi gió thu về hạ chóng qua
Ngoài vườn tôi nhặt xác ve già
Đem chôn dưới gốc cây râm mát
Mùa hạ sau còn nghe tiếng ca.
 
2/8/2023
 

 
 
 

Trả Ta Về

 Trần Đức Phổ

Trả ta về tháng ngày xa xưa ấy
Thuở đất trời vừa mới tách làm đôi
Cả trần gian còn ngây thơ, vụng dại
Bầy thú hoang chung sống với con người
 
Trả ta về với trăng thanh, gió mát
Không thù hằn với gươm, giáo, đạn, bom…
Trả cho ta tiếng suối reo, chim hót
Thuyết tà ma chưa làm bẩn linh hồn
 
Trả lại ta Vườn Địa đàng thuở đó
Không lâu đài, không dinh thự nguy nga
Thảo nguyên xanh, hoa thơm và cây trái
Ta – Adam, còn nàng ấy – Eva.
 
3/8/2023
 

 

Thứ Sáu, 4 tháng 8, 2023

BlackPink

 Tú Điếc

 

vừa hồng hồng, vừa đen đen
thế nên thiên hạ đua chen ngắm nhìn
bốn nàng thiếu nữ xinh xinh
đen/hồng quả thật hữu tình làm sao!
 

 

Chuyện Bắn Hổ

 Tú Điếc

Một ông nọ dẫn cô vợ trẻ đến phòng mạch bác sĩ để khám phụ khoa. Sau khi khám xong ông bác sĩ báo tin vui cho hai vợ chồng biết, rằng bà đã có mang. Người đàn ông nghe xong, có vẻ không được vui, còn vẹn vẹo hỏi lại bác sĩ.
- Thưa bác sĩ, vợ tôi có mang?... thật là khó tin! Mỗi lần quan hệ tôi đều có đeo bcs, và toàn là đồ hiệu, thứ xịn không có lỗ mọt hoặc dễ dàng bị rách, thì làm sao mà dính được?
Bác sĩ chờ nghe anh ta nói một thôi dài, xong mới từ tốn bảo:
- Tôi kể anh nghe câu chuyện này, nghe rồi anh tất hiểu… Có một ông kia đi đâu cũng mang theo bên mình một khẩu súng và một cái dù. Một lần ông ta đi du lịch nơi rừng rậm bên Phi Châu đột nhiên gặp một con hổ xông ra trước mặt. Ông vội vàng móc khẩu súng ra để bắn. Luýnh quýnh, ông móc trúng cái dù, vừa đưa dù lên đã nghe “đoàng” một tiếng. Con hổ chết ngay lập tức. – Kể đến đây ông bác sĩ ngừng lại hỏi anh chồng – Ông hiểu vấn đề rồi chứ?
Ông chồng gật gật đầu, đáp:
- Tôi hiểu! Tôi hiểu!... Đã có người khác dùng súng bắn chết hổ!
 
30/7/2023
Sưu tầm 



Buồn Thay Gái Việt

 

Cũng là má thắm, cũng môi hồng
Xem cái hồng nhan rẻ rúng không?
Gái Việt bán rao như sản vật
Vì đâu nên nỗi... cháu Tiên rồng?
 

 

Người Khôn - Kẻ Dại

 

Người khôn ngậm miệng cũng khôn
Kẻ ngu diễn thuyết dài dòng cũng ngu
 

 

Thứ Ba, 1 tháng 8, 2023

Tấm Thảm Đỏ Và Ông Bộ Trưởng Văn Hóa

 Điếc

Tướng quốc Mã Lai đến xứ ta
Ô hô, ông Thủ lại nằm nhà
Sai anh bộ trưởng ra chào đón
Thảm đỏ anh giành bước đủng đa!
 

 

Ngày Mưa

 

Trong cuộc đời mỗi người chúng ta có những ngày mưa, lạnh giá, u ám cũng là thường tình. Mời đọc bài thơ The Rainy Day của Henry Wadsworth Longfellow để có thêm nghị lực vượt qua những nỗi buồn trong đời ta.
 

 
.
 
THE RAINY DAY
By Henry Wadsworth Longfellow (1807-1882)
 
The day is cold, and dark, and dreary;
It rains, and the wind is never weary;
The vine still clings to the mouldering wall,
But at every gust the dead leaves fall,
And the day is dark and dreary.
 
My life is cold, and dark, and dreary;
It rains, and the wind is never weary;
My thoughts still cling to the mouldering Past,
But the hopes of youth fall thick in the blast,
And the days are dark and dreary.
 
Be still, sad heart! and cease repining;
Behind the clouds is the sun still shining;
Thy fate is the common fate of all,
Into each life some rain must fall,
Some days must be dark and dreary.
.
 
NGÀY MƯA
 
Ngày lạnh lẽo, buồn tênh, và u ám
Mưa chẳng ngừng, và gió chẳng nghỉ ngơi
Giàn dây leo bám vào tường hoang phế
Nhưng mỗi lần gió giật lá úa rơi
Ngày lạnh lẽo, buồn tênh, và u ám
 
Đời lạnh lẽo, buồn tênh, và u ám
Mưa chẳng ngừng, và gió chẳng nghỉ ngơi
Tâm trí tôi bám Ngày xưa hoang phế
Nhưng hy vọng đành như xác pháo rơi
Ngày lạnh lẽo, buồn tênh, và u ám
 
Hãy lặng yên, tim sầu! thôi mòn mỏi
Sau tầng mây ánh nắng vẫn lung linh
Phận con người là phận chung tất cả
Mưa có lúc rơi trong cuộc đời mình,
Và có nhữngngày u ám, buồn tênh.
 
27/7/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch

Những Ngày Lễ

 Trần Đức Phổ phỏng dịch


 

Những ngày lễ, với nhiều người hiện nay là đi du lịch đây đó, ăn uống vui chơi, nhậu nhẹt. Nhưng “Holidays” với Henry Wadsworth Longfellow là những ngày thần thánh để sống cho trái tim, cho tâm hồn mình. Theo ông, sự bình yên nội tâm mà thời gian nghỉ lễ mang lại mới là thứ quý giá. Những 'ngày kỷ niệm bí mật của trái tim,' của hồi ức. Không những thế, bài sonnet còn là một bức tranh tuyệt đẹp với những hình ảnh như cánh buồm trắng, áng mây trôi, và bông huệ nõn nà bên suối.
.
 
HOLIDAYS
By Henry Wadsworth Longfellow (1807-1882)
 
The holiest of all holidays are those
Kept by ourselves in silence and apart;
The secret anniversaries of the heart,
When the full river of feeling overflows;—
 
The happy days unclouded to their close;
The sudden joys that out of darkness start
As flames from ashes; swift desires that dart
Like swallows singing down each wind that blows!
 
White as the gleam of a receding sail,
White as a cloud that floats and fades in air,
White as the whitest lily on a stream,
These tender memories are;— a Fairy Tale
 
Of some enchanted land we know not where,
But lovely as a landscape in a dream.
.
 
NHỮNG NGÀY LỄ 
 
Linh thiêng nhất của những ngày nghỉ lễ
Là giữ cho mình tĩnh lặng, sống riêng tư
Lúc trái tim hoài niệm điều bí mật
Như dòng sông nước lênh láng đôi bờ;—
 
Ngày hạnh phúc không mây giăng vào tối
Niềm vui bất ngờ khởi tự màn đêm
Lửa từ tro; ham muốn vút như tên
Như én hót mỗi lần cơn gió thổi!
 
Trắng như tia sáng cánh buồm dần khuất
Trắng như mây bay tan loãng trên trời
Trắng như bông huệ bên suối, tinh khôi
Những hồi tưởng êm đềm;— trong Cổ tích 
 
Chốn ly kỳ ta chẳng biết nơi mô
Nhưng xinh tươi như thắng cảnh trong mơ.
 
28/7/2023

Khúc Thi Thiên Của Đời Người

 What The Heart Of The Young Man Said To The Psalmist.


 

A PSALM OF LIFE
By Henry Wadsworth Longfellow (1807-1882)
 
Tell me not, in mournful numbers,
Life is but an empty dream!
For the soul is dead that slumbers,
And things are not what they seem.
 
Life is real! Life is earnest!
And the grave is not its goal;
Dust thou art, to dust returnest,
Was not spoken of the soul.
 
Not enjoyment, and not sorrow,
Is our destined end or way;
But to act, that each to-morrow
Find us farther than to-day.
 
Art is long, and Time is fleeting,
And our hearts, though stout and brave,
Still, like muffled drums, are beating
Funeral marches to the grave.
 
In the world’s broad field of battle,
In the bivouac of Life,
Be not like dumb, driven cattle!
Be a hero in the strife!
 
Trust no Future, howe’er pleasant!
Let the dead Past bury its dead!
Act,— act in the living Present!
Heart within, and God o’erhead!
 
Lives of great men all remind us
We can make our lives sublime,
And, departing, leave behind us
Footprints on the sands of time;
 
Footprints, that perhaps another,
Sailing o’er life’s solemn main,
A forlorn and shipwrecked brother,
Seeing, shall take heart again.
 
Let us, then, be up and doing,
With a heart for any fate;
Still achieving, still pursuing,
Learn to labor and to wait.
 
“A Psalm of Life” was first published in the October 1838 issue of The Knickerbocker; or the New York Monthly Magazine. The poem was published in the Voices of the Night in 1939.
.
 
KHÚC THI THIÊN CỦA ĐỜI NGƯỜI
 
Tấm lòng một chàng trai trẻ dâng lên tác giả Thi Thiên 
 
Đừng nói với tôi lẽ chán chường
Đời là một giấc mộng mơ suông!
Linh hồn ngây dại linh hồn chết
Sự việc vẻ ngoài khác với trong
 
Cuộc đời là thật, chẳng hư vô
Đích sống nào đâu phải nấm mồ
“Thân ta cát bụi về cát bụi ”
Linh hồn chẳng nói thế bao giờ
 
Không vui mà cũmg chẳng buồn đau
Định mệnh đẩy đưa đến lối nào
Hành động cho ngày mai tốt đẹp
Mỗi ngày càng xán lạn, vươn cao
 
Thời gian chóng vánh, Nghệ thuật lâu
Trái tim dù can đảm đến đâu
Vẫn như trống hãm khi đang gõ
Theo đám tang về mộ huyệt sâu
 
Trần gian là một bãi chiến trường
Mà đời là doanh trại quân nhân
Đừng ngu muội như đàn gia súc
Hãy đấu tranh làm một anh hùng
 
Dẫu Ngày mai đẹp cũng chớ tin
Hãy để cho quá khứ lặng im
Làm,— hãy làm ngay kịp lúc
Chúa trên đầu, nhiệt huyết trong tim
 
Gương vĩ nhân còn mãi sáng soi
Cho ta học cách sống làm người
Để khi rời bỏ nơi trần thế
Còn dấu chân in ở cõi đời
 
Những dấu chân trên cát thời gian
Biết đâu có kẻ vượt trùng dương
Gặp cơn bão tố con thuyền đắm
Nhìn thấy, vững lòng, can đảm hơn
 
Vậy, hãy đứng lên cố gắng làm
Bằng con tim, mặc kệ gian nan
Không ngừng gặt hái, và theo đuổi
Học đợi chờ và lao động siêng năng.
 
31/7/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch