Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

Tạ Lỗi Quê Hương

Tác giả: Trần Đức Phổ

Biển Đông giăng giăng trước mặt
Trường Sơn sừng sững sau lưng
Vòm trời quê hương xám ngắt
Tối tăm, giá lạnh chiều đông!

Hai mươi năm dài chinh chiến
Xương rơi máu chảy không ngừng
Hòa bình dòng người vượt biển
Làm mồi cá mập đại dương

Mười năm đói nghèo Hợp tác
Không mảnh vải lành che trôn
Vùng kinh tế mới xơ xác
Phố phường trơ trọi, vô hồn!

Hy vọng cái ngày mở cửa
Tự do, Dân chủ đón chào
Ai dè Liên Xô tan rã
Lại tròng cái ách của Mao

Trước kia búa liềm vô sản
Đổi mới nhiều trò tham ô
Tài nguyên gom vào túi đảng
Công nông tay trắng như cò!

Một vùng biên cương phía bắc
Nam Quan, Bản Giốc, rừng vàng...
Đem dâng hiến cho lũ giặc
Mong nhờ bảo hộ bình an!

Hoàng Sa, Trường Sa đảo biếc
Mặc cho giặc cướp lộng hành
Ra lệnh "Buông súng, đừng giết!"
Đồng chí bạn vàng, đàn anh!

Tùng xẻo từng mảnh, từng mảnh
Đất đai bán tháo cho Tàu
Nhân dân ai người bất mãn
Xà lim chúng tống ngay vào!

Quan chức một bầy bạc nhược
Tham lam vơ vét bạc vàng
Mua sẵn hộ tịch ngoại quốc
Về hưu là vù bay sang

Sĩ khí quốc dân hèn mạt
Có đâu như thời Đông A
Hợp quần cùng hô: Sát Thát
Quyết tâm giữ lấy sơn hà!

29.09.2022 
 

 

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2022

Tìm Em Bóng Dáng Chiều Thu

Tác giả: Trần Đức Phổ

Anh về qua ngõ mùa thu
Gió chiều lành lạnh, sương mờ mờ giăng
Đâu rồi tà áo lụa vàng
Ngẩn ngơ lối cũ thênh thang nỗi buồn

Mùa thu nào, em nhớ không
Lá rơi hòa nhịp tiếng lòng mình trao
Nắng thu thơm ngát môi đào
Tình thu mật ngọt rót vào đời nhau?

Em mùa thu đó giờ đâu
Một dòng nước chảy chân cầu buồn thiu
Cánh hoa vàng trôi phiêu phiêu
Bỏ rơi con bướm một chiều thu mưa

Về ngang con ngõ ngày xưa
Dường như... thuở đó... mới vừa hôm qua
Sau cành trúc dáng la đà,
Tóc thề, tà áo hoàng hoa... gió lùa!

29/09/2022 
 
 


Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

Quãng Đời Sau Lưng - Tự truyện

 


Khi Anh Chết Đừng Đưa Anh Ra Biển

Tác giả: Trần Đức Phổ

Khi anh chết đừng đưa anh ra biển
Đàn cá voi chẳng hộ tống anh về
Biển Bắc Mỹ dẫu năm dài lạnh lắm,
Xác thân này cũng thối rữa em nghe!

Khi anh chết đừng đưa anh ra biển
Trung dương xanh đâu phải chốn quê nhà?
Một xác ướp lênh đênh trên bốn biển
Chảng linh hồn và cũng chẳng thây ma!

Khi anh chết đừng đưa anh ra biển
Làm mồi cho cá mập khắp đại dương
Thân cát bụi chắc gì còn nguyên vẹn
Mà cầu mong tìm đến cõi thiên đường?

Khi anh chết đừng đưa anh ra biển
Cho bão giông xô đẩy tấp vào bờ
Em sẽ chẳng nhận ra nơi bãi vắng
Khi tình cờ bắt gặp bộ xương khô!

Đêm nghe tin bão quê nhà
27/09/2022 
 

 

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2022

Bài Mừng Sinh Nhật Sáu Mươi

Tác giả: Trần Đức Phổ

Đánh bóng "Quãng đời sau lưng"
Bỏ quên đoạn đường trước mặt
Sáu mươi đâu phải già chát
Cớ chi kể chuyện ngày xưa?

Lật tung từng trang dĩ vãng
Giăng giăng nỗi buồn mông mênh
Dòng sông tuổi thơ lai láng
Nỗi niềm ngọt ngào không tên

Quãng đời sau lưng khép lại
Một vùng ký ức lặng yên
Qua rồi bão giông ngày ấy
Ân tình xin khắc vào tim

Món quà sáu mươi tuổi Việt
Cho anh và cho cả em
Thuở nào chàng chàng thiếp thiếp
Dẫu không phận cải duyên kim!

Đôi chân đã từng lê gót
Dạo chơi nửa quả địa cầu
Vần còn nặng lòng tha thiết
Tình quê hồn nhói tim đau

Đúng ngày sáu mươi sinh nhật
Sáng ra dậy sớm làm thơ
Vợ con đề huề chúc phúc
Cuộc đời đẹp đến không ngờ!

20.09.2022 
 

 

Nụ Cười

Tác giả: Trần Đức Phổ

Nếu ai bảo nụ cười em lơi lả
Đừng giận hờn, đừng oán trách nghe em
Anh là kẻ vốn say tình rất lạ
Với những nàng ma nữ chẳng hồn nhiên

Nếu ai bảo nụ cười em khêu gợi
Đừng dỗi hờn những kẻ thiếu tự tin
Nếu ngày xưa môi hồng nàng Bao Tự
Không gợi tình Chu đế có đảo điên?

Nếu ai bảo nụ cười em phóng đãng
Cũng đừng buồn, đừng giận dữ làm chi
Ai dám bảo Tử Nha hay Đát Kỷ
Phá Trụ vương đế nghiệp chẳng còn gì?

Những nụ cười của mỹ nhân thiên hạ
Dù thiện lành hay chất chứa gươm đao
Cũng đủ khiến lắm anh hùng ngã ngựa
Nét môi son rất đáng để tự hào!

19/09/2022 
 

 

Thời Gian


 
Nguyên tác:
TIME IS
by Henry Van Dyke (1852- 1933)

Time is
Too Slow for those who Wait,
Too Swift for those who Fear,
Too Long for those who Grieve,
Too Short for those who Rejoice;
But for those who Love,
Time is not
.

Bản dịch của Trần Đức Phổ:

THỜI GIAN
Thời gian: Chậm quá – kẻ Chờ
Nhanh ghê với kẻ Sợ lo trong lòng
Dài ghê cho kẻ Đau thương
Ngắn ghê cùng kẻ Vui mừng, hân hoan
Những ai Hương lửa nồng nàn
Thời gian là chẳng liên can chút gì.

17/09/2022 
 

 

Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2022

Xưa

Tác giả: Trần Đức Phổ

Em xưa cùng với tôi xưa
Đã từng tay nắm, đã ưa mắt nhìn

Em xưa cây trúc xinh xinh
Cho tôi đứng cạnh chung tình làm đôi

Em xưa đóa mộng thắm tươi
Cho tôi hương sắc của thờI thanh xuân

Em xưa suối nước trong ngần
Cho tôi soi bóng phù vân đời mình

Nhắc làm chi chữ chung tình
Trăm năm gương vỡ chẳng lành như xưa!

18/09/2022 
 

 
 
 

Nha Trang Anh Về

Tác giả: Trần Đức Phổ

Nha Trang ngày đó anh về
Nắng hiu hắt nắng, buồn lê thê buồn
Biển xanh lớp lớp sóng dồn
Thầm thì gió kể ngọn nguồn ngày xưa

Vầng trăng chửa tỉnh giấc mơ
Bàn tay vẫn nhớ những tờ thư trao
Kiếp này chẳng được bên nhau
Làm sao dốc cạn một câu chung tình?

Em là em của riêng anh
Hoa là hoa của nụ tình đầu tiên
Nợ nhau một mối lương duyên
Kiếp sau xin bến với thuyền đừng xa!

17/09/2022 
 

 

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2022

Tiễn Em

Tác giả: Trần Đức Phổ

Qua đường truông vắng chiều nay
Gặp hoa vàng nở thêm cay đắng lòng
Thu về ngấp nghé rừng phong
Lá xanh than thở sắc hồng cợt trêu

Trên cành xa xót chim kêu
Bước chân ai nặng bao nhiêu nỗi niềm
Thu này đã vắng bóng em
Còn ai đón đợi đoàn viên trăng rằm

Người xa xăm, mộng xa xăm
Lẻ loi tiếng nhạn buồn ngân cuối trời
Em về chốn áy mù khơi
Bơ vơ một bóng ta đời tha phương

Ngậm ngùi trong nỗi xót thương
Chia ly nào chẳng đoạn trường lòng nhau
Em về đâu? Ta về đâu?
Một vầng mây trắng trên đầu tóc tang!

16/09/2022 
 

 

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2022

Nghề Mành Sơn Ở Quê Tôi

 

NGHỀ MÀNH SƠN Ở QUÊ TÔI
 
Ngày trước ở quê, tôi thường nghe người ta hay đọc một câu vè mà không biết nó có từ lúc nào:
Ai ăn bánh ít lá tra
Lấy chồng Quảng Ngãi bám cây chà mành sơn!
 
Bánh ít lá tra? Tôi chưa từng ăn. Tôi chỉ được ăn bánh ít lá gai, bánh ít trần, còn bánh ít lá tra tôi chỉ nghe người ta nói đến trong câu vè trên. Nhưng cây chà mành sơn thì tôi quá rành rẽ. Bởi thuở nhỏ vào những dịp nghỉ hè tôi đã từng nhảy theo những chiếc thuyền mành để làm thủy thủ tập sự. Xã tôi ở nằm dọc theo bờ Biển Đông, từ đầu này đến đầu kia của xã dài hơn chục cây số. 
 
Ngoài một số con tàu chạy bằng dầu có chỗ đậu ở của Mỹ Á, dọc theo bờ là bến bãi của nhưng chiếc thuyền và những cái mủng nan. Loại phương tiện này nhiều vô kể, lớn nhỏ đủ kích cỡ. Người dân quê tôi không gọi là thuyền mà gọi là ghe. Chiếc ghe bé nhất dài chừng 3-4 mét, bề ngang chừng 1.8 mét; còn ghe lớn nhất cũng chỉ dài và rộng gấp đôi. Loại ghe này được đan đát bằng tre cật già, đủ độ bền và dẻo dai để chịu được sóng gió. Khi đan xong còn phải trát ba lần phân bò bên ngoài và trong cho kín các khe hở. Sau đó chờ cho khô lại phết thêm hai lớp dầu rái chống thấm nước. Những chiếc ghe lớn theo phong tục ở quê tôi khi làm xong đều phải điểm nhãn. Mắt ghe được vẽ ở đầu mũi. Mỗi bên một con, kiểu mắt phượng, đầu tròn đuôi dài và nhọn. Lòng mắt được sơn hai màu đen trắng. Vành mắt đôi khi viền đen hoặc xanh đậm. Bên mỗi be thuyền có một hàng ba cái cọc quay chèo, phía trái thêm cọc chèo lái. Các cọc chèo được xếp theo hàng dọc so le nhau. Chính giữa ghe là cột buồm, chỉ khi nào đi lưới ngaoif khơi mới cần căng buồm lên. Ghe ở làng chài tôi không thả neo ngoài biển, không về cửa đậu mà được dùng đòn khiêng xoay vần lên bãi cát trong bờ sau mỗi buổi ra khơi. Tờ mờ sáng hôm sau lại khiêng xuống nước. Có lẽ vì là bãi ngang nên sóng gió bất ngờ, ghe neo ngoài nước không người trông coi dễ bị sóng đánh chìm hoặc vỡ. Còn về cửa Mỹ Á thì đi lại bất tiện.
 
Vì sống với sóng gió, tai ương không thể lường trước được nên ngư dân ở đây rất kiếng cữ. Có khi những điều kiêng cữ ấy quá phi lý đã trở thành mê tín dị đoan nhưng không ai dám bất tuân. Ví như lúc sắp khởi hành không ai được đi ngang qua trước mũi ghe, hoặc bước ngang qua cây chèo lái. Không được đem trái thị có mùi thơm của cô Tấm ra biển. Không được nói “chạy tuốt” mà phải nói “chạy tắp” v.v... Tất cả những điều kể trên đều bị cho là xúi quẩy. Kẻ nào lỡ vi phạm tuy không bị đánh đòn nhưng sẽ bị mắng là “Đồ ở núi!” Đó là một câu chửi rất nặng nề ở quê tôi. Có ý nghĩa như thứ dân mọi rợ chẳng biết gì.
 
Tuy là mặt biển rộng mênh mông, không ranh giới nhưng các vùng nước cách xa bờ vài hải lý đều có chủ quyền sở hữu cả. Dưới mặt nước xanh kia là những rặng san hô ngầm. Thật ra các chủ ghe không sỏ hữu mặt nước mà là các rặng san hô này. Mỗi một rặng san hô đều có tên gọi hẳn hòi, và được xác định tọa độ bằng cách lấy vị trí của các ngọn núi trong bờ làm chuẩn. Hàng năm các ông chủ rạng phải xuống Ủy ban xã đăng ký quyền sử dụng và đóng thuế cho nhà nước rồi mới được khai thác. Để sử dụng các rặng san hô cho có hiệu quả người ta tìm cách dụ hải sản quanh vùng về rạng của mình. Cách làm cũng đơn giản giống như thả chà ở sông. Nhưng về mặt kỹ thuật hơi khác chút đỉnh. Cụ thể, ngư dân dùng một cây tre đằng ngà to và dài, xung quanh có buộc bốn sợi dây thừng cũng rất dài đối xứng nhau. Những sợi dây thừng này được đánh bằng ruột tre chuốc thành sợi nhỏ, kết hợp với cọng cỏ lát khô cho tăng thêm độ bền. Dây thừng được đánh thật săn chắc, cứ mỗi đoạn cách nhau một cánh tay lại cột vào đấy mấy rẻ chà là đã phơi khô. Một đầu thừng buộc vào cây tre đằng ngà; đầu còn lại buộc vào cái giỏ cần xé to đùng có lót rơm xung quanh, và dồn cát biển vào trong ruột thật chặt. Tất cả những thứ ấy được chở ra biển và thả xuống rạng để làm “nhà” cho cá ở. Cứ vài ba tháng ngư dân lại phải làm một căn nhà mới để bổ sung. Những cái cây tre trụi lá do người tạo, mọc trên biển như thế được gọi là “cây chà mành sơn”.
 
Phương thức đánh bắt hải sản cũng có rất nhiều cách. Chẳng hạn như đi câu, thả bóng (một loại lờ bắt cá, cua, mực... ở biển, có dạng khối vuông, mỗi cạnh chừng 2m), đánh lưới... Nhưng thịnh hành nhất ở quê tôi là nghề mành sơn. Mỗi chiếc ghe mành gồm một ông chủ, luôn luôn là người cầm chèo lái, và sáu người bạn chèo. Cứ tờ mờ sáng là cùng nhau đẩy ghe ra biển. Đánh bắt đến xế trưa thì quay trở lại bờ. Sản phẩm thu được đem về chia phần ghe và giàn mành chiếm một nửa. Phần còn lại chia đều cho bạn và chủ ghe. 
 
Thuở thiếu niên tôi cũng đã từng theo ghe mành vài lần vì muốn biết cái nghề mành sơn nó như thế nào . Khi mặt trời còn chưa ló dạng, phương đông chỉ mới ửng hồng, mọi người đã lục tục quay ghe xuống mép nước. Thủy thủ chia ra hai bên mạn thuyền “gay” chèo vào cọc, sẵn sàng nghe lệnh. Khi có một con sóng ngã vào bờ, chờ đúng lúc con sóng rút ra, chủ thuyền hô “Đẩy!” thì tất cả mọi người cùng khom lưng dồn hết sức đẩy mạnh cho chiếc ghe lao xuống nước. Khi ghe bắt đầu nổi lên khỏi mặt cát cũng là lúc mọi người thót nhanh lên thuyền, cầm vội lấy cây chèo, chèo thật cật lực. Bình thường sóng êm gió nhẹ thì chiếc ghe sẽ lướt phăng phăng rời bờ. Nhưng nhiều hôm có gió to sóng lớn ghe bị đánh xoay ngang, nước biển tràn vào khoang thì vất vả hơn nhiêu. Thủy thủ phải nghiêng ghe đổ nước hoặc dùng gàu tát cạn rồi mới tiếp tục cuộc xuất hành. Bởi thế khi biển hơi có sóng thủy thủ chỉ mặc có mỗi một chiếc quần cộc và để lưng trần. Nếu sóng lớn quá thì tạm nghỉ biển một bữa.
 
Khi đã đến vùng để đánh bắt, hai cái chèo ở khoang giữa được gỡ ra. Giàn mành sơn bằng sợi ni-lông (thời xưa hơn là sợi gai) được hai người cầm chèo giữa thả xuống nước. Những người khác vẫn tiếp tục chèo vì ghe không thả neo. Giàn lưới từ từ chìm xuống mặt biển xanh. Tấm lưới mành xòe ra trông giống như một cái đãy lớn, miệng rộng đuôi úm lại để chứa cá tôm. Ba sợi dây ni-lon lớn bằng ngón tay cái cột ở miệng lưới được giữ lại nơi be thuyền, để lát sau kéo mành lên. Lúc này ông mặt trời đã hiện ra nơi đường chân trời. Những tia nắng hồng ấm áp chiếu rọi khắp nơi. Thủy thủ gác chèo lên be, và mở những gô cơm ra ăn sáng. Chủ ghe vẫn đứng cầm lái, chốc chốc lại khua chèo khuấy nước một lần để giữ cho chiếc ghe khỏi trôi xa vị trí thả lưới. Chỉ khi nào có ai đó cầm chèo thay thì chủ ghe mới nghỉ ngơi để ăn sáng.
 
Chừng hơn một tiếng đồng hồ sau, bốn thủy thủ xúm lại kéo lưới lên. Giàn mành từ từ lộ ra dưới làn nước trong xanh. Dù còn cách mặt nước khá xa đã thấy những con cá đang bị tấm lưới dồn ép quây quần lại với nhau thành đàn. Lưới được kéo lên cao chừng nào đàn cá càng túm tụm lại với nhau chừng nấy. Ở rặng san hô có nhiều loại cá khác nhau, đủ các loại màu sắc đen, vàng, hồng, cam, trắng... bị lùa về phía cuối đãy mỗi lúc một nhanh. Tôi thấy chúng thật tội nghiệp, nhưng đám thủy thủ thì reo hò vui vẻ. Cá nhiều quá! Chủ ghe sợ cái đãy chứa không hết, cá sẽ tràn ra ngoài nên sai một anh thủy thủ trẻ tuổi nhảy xuống nước, dùng một khúc tre dài làm phao nắm lấy cái dây ở miệng đãy mà kéo lên để giữ cho cá khỏi tràn ra ngoài. Hai người đàn ông lực lưỡng hè hụi nâng đãy cá lên khỏi mặt biển và đổ cái ào vào khoang. Mọi người nói cười vui vẻ, đánh giá mẻ lưới đầu tiên như thế là quá tốt. Chiếc ghe lúc kéo lưới bị luồng nước và gió trôi đi hơi xa vùng san hô nên mọi người vội vàng cheo vòng lại chỗ cây tre chà. Mẻ lưới thứ hai lại được tiếp tục thả xuống. Mãi đén lúc không còn thu hoạch được gì chiếc ghe mới rời đi đến vùng rạng khác. Thường thì mỗi chủ ghe sở hữu hai ba vùng đánh bắt. Hôm nay có cá nhiều đến xế trưa họ mới trở vào bờ. 
 
Buổi trưa phụ nữ và các cô gái đem cơm ra biển cho chồng con, ngồi đợi trong những cái chòi rơm. Sau khi ghe đã được đưa lên bãi, thủy thủ khiêng những sọt cá lên chòi. Cá được đổ ra trên một tấm liếp lớn, và hai anh ngư dân phụ trách đong chia cho mọi người. Trong lúc đàn ông nghỉ ngơi ăn cơm thì đàn bà nhận phần cá của chồng con mình, gánh đến chợ bán hoặc san lại cho những người chạy rỗi (bạn hàng mua bán cá). 
 
Cuộc sống hàng ngày cách đây bốn mươi, năm mươi năm ở cái làng chài quê tôi diễn ra như vậy. Nhưng ngày nay tất cả đã khác xưa. Ngư dân đã đóng những chiếc tàu to đùng, đi đánh bắt những vùng biển khơi xa. Bãi biển không còn bóng dáng một chiếc ghe mành nào, mà chí có những vuông tôm xả nước thải đen ngòm và hôi thúi ra một vùng biển đầy thơ mộng với nhiều nét đẹp hoang sơ.
 
26/8/2022
Trần Đức Phổ
 

 

Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2022

Hợp Tác Xã Nông Nghiệp Quê Tôi

 

HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP QUÊ TÔI 

Người có tuổi thường hay viết hay kể về những chuyện trước đây. Cũng rất dễ hiểu, vi già yếu không còn xông xáo như thời trai tráng, mắt mũi kem nhèm nên đọc báo đọc tin cũng chậm chạp hơn. Đầu óc thì chậm lụt. Bởi vậy chuyện đương thời không cách nào bén nhạy bằng các bạn còn trẻ. Những chuyện mình không rành khi nói và viết đều rất khó. Vì thế cứ ‘ăn mày quá khứ’ là dễ dàng thuận lợi nhất.
Tôi dài dòng rào đón là mong muốn được mọi người cảm thông trước khi viết ra những điều xưa như trái đất, bị mọi người tránh né như tránh hủi, đó là chuyện Hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ bao cấp 10 năm (1976-1986) ở miền Nam Việt Nam.
 
Như tôi đã nhiều lần nhắc đến, làng tôi vừa có ruộng vừa có rẫy lại có cả biển. Nhưng những năm bao cấp tôi còn bé không thể đi biển được nên chỉ có thể làm ruộng và làm rẫy. Làm rẫy thì nhà tôi có đất đai của ông bà để lại, nhưng không có một tấc đất ruộng nào. Do đó gia đình tôi thuộc thành phần bần nông nên được vận động vào Hợp tác xã đầu tiên. Ngày đó đọc những cuốn sách viết về nông thôn miền Bắc làm hợp tác xã với những cánh đồng lúa năm tấn, tôi ngưỡng mộ và ham muốn lắm. Ước ao rằng quê tôi cũng làm hợp tác xã để tôi có cơm ăn cho thỏa thích. Thế nên nghe nói địa phương sắp thành lập hợp tác xã nông nghiệp tôi mừng lắm, cố gắng thuyết phục mẹ tôi ghi danh đầu tiên. 
 
Tôi nói với mẹ:
- Ngoài Bắc người ta làm hợp tác xã năm nào cũng bội thu. Tất cả những chi phí sảm xuất nhà nước đều lo, mình chỉ cần đi làm công rồi cuối mùa thu hoạch gánh lúa về thôi.
Mẹ tôi nghi ngờ:
- Dễ ăn như thế sao trong ta nhiều người không chịu vào?
- Chắc là họ có nhiều ruộng quá. Vào hợp tác sẽ bị mất sạch nên họ chống đối thôi!
- Nhưng sao mẹ thấy mấy gia đình tập kết từ ngoài Bắc trở về đây còn nghèo hơn nhà mình?
- Có lẽ do họ ở thành phố, gốc công nhân vô sản mà mẹ! Hơn nữa nhà mình vào hợp tác xã được nhận vài chục mét vuông ruộng phần trăm cũng tốt mà!
Bị tôi làm thuyết khách mẹ tôi đồng ý. Hôm đi ghi tên về mẹ đưa cho tôi tờ giấy vẻ không vui:
- Con đọc đi! Sao họ bắt mình phải xin xỏ?
Tôi cầm tờ giấy đánh máy thấy ghi phía dưới câu khẩu hiệu bắt buộc cho tất cả mọi đơn từ, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, độc lập tự do hạnh phúc là dòng chữ: Đơn Xin Vào Hợp Tac Xã Nông Nghiệp. Tôi cũng ghét hai chữ “đơn xin” nhưng vội an ủi mẹ tôi:
- Họ máy móc làm theo thủ tục thôi mẹ ơi! Đề đơn xin coi như mình tự nguyện tham gia cũng hay hay mà!
Mẹ tôi không nói gì thêm.
 
Tôi còn nhớ như in ngày đầu tiên đi làm hợp tác xã là một buổi sáng mùa hè. Đúng sáu giờ sáng trong xóm vang lên tiếng keng... keng... keng... của những mảnh kim loại đạp vào nhau. Người ta dùng cái búa to gõ vào một quả đạn pháo 175 ly rỗng ruột làm hiệu lệnh kêu gọi mọi người tập trung về ngôi trường tiểu học trước khi xuất phát. Hôm đó có chừng hai chục người cả nam và nữ. Mỗi người đều vác trên vai một cái cuốc. Anh đội trưởng đội sản xuất dẫn mọi người ra cánh động trống trụi trơ gốc rạ. Anh ta chỉ một đám ruộng vừa mới đốt rơm, bề mặt còn loang lổ những vũng tàn trò đen sì, bảo mọi người xuống đấy dàn thành hàng ngang để cuốc đất. Vì xóm tôi phần lớn các gia đình đều làm biển nên không nuôi trâu bò cày. Thỉnh thoảng những đội sản xuất khác có dư thợ cày mới được điều sang phụ giúp.
 
Mùa vụ đầu tiên ai nấy đều hăng hái làm việc vì cái hứng khởi được làm ăn trong một mô hình sản suất mới vĩ đại theo chủ trương của cách mạng: Làm ăn tập thể. Cuối vụ đó một ngày công vất vả 10 điểm được chia cho 1.2kg thóc. Nhưng dần dà cán bộ làm việc quan liêu. Chủ nhiệm không bước chân ra đồng, giao toàn bộ việc đồng áng cho các đội trưởng sản xuất. Ban quản trị ngồi mát ăn bát vàng, cấu kết với thủ kho, kế toán biển thủ ngân sách, phân bón, thóc giống, và tham ô nông sản... khiến người dân bất mãn, bỏ đi làm chuyện khác. Thời hợp tác xã nông nghiệp quê tôi không có cánh đồng lúa vàng trĩu hạt. Không có hình ảnh anh chủ nhiệm được ngợi ca với “bao tiếng thân thương, lời cảm mến” như trong bài thơ của Hoàng Trung Thông. Dạo đó, cánh đồng làng tôi chỉ có những thửa ruộng khô nức nẻ. Những thân lúa gầy ốm tong teo. Màu xanh của cỏ năng, cỏ lát bao trùm lấn át cả màu xanh của lúa. Để rồi mỗi vụ mùa thu hoạch một ngày công chỉ được vẻn vẹn 5 lạng lúa phơi một nắng có khi là lúa tươi! Không những thế, đội nào gặp phải tay thủ kho tham ô còn bị trộn cát vào trong lúa cho nặng cân để ăn chặn số thóc dư nữa! May là quê tôi còn có những vồng khoai lang, khoai mì. Những chiếc ghe mành sơn sớm chiều hăng hái vượt sóng. Nếu không, ngày đó dân làng đã chết đói hoặc tha phương cầu thực khắp mọi nơi rồi!
 
Sự vật cùng tấc biến. Nhờ phong trào đổi mới cải tổ, Hợp tác xã thay đổi cách làm ăn tập thể bằng “giao khoán sản phẩm.” Nông dân nhận ruộng về canh tác rồi đóng tô thuế cho hợp tác xã và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thật ra sự thay đổi này chẳng có gì mới mẻ cả chỉ là quay trở lại cảnh tá điền lãnh ruộng về cày thuê như thời phong kiến thực dân mà thôi. Dù sao thì cách làm đo cũng đã đem lại hiệu quả. Nông dân được chăm bón trên chính thửa ruộng nhà mình làm chủ nên khác hẳn kiểu “cha chung.” Năng suất tăng vọt. Đồng ruộng lại nghe sóng lúa rì rào.
 
6/9/2022
Trần Đức Phổ
 

 


Thứ Hai, 5 tháng 9, 2022

Nhà Ông Ba Mân

NHÀ ÔNG BA MÂN
truyện ký
.
Mới nửa buổi sáng cả xóm bỗng nhiên náo động dị thường. Đang giữa mùa hè lý ra giờ này mọi người ở ngoài đồng làm ruộng, hoặc ở trong bếp lo cơm nước để đến trưa đem ra biển cho chồng mới phải. Nhưng hôm nay có chuyện khác lạ, không giống như mọi ngày. Từng tốp người lũ lượt chạy ngang qua trước nhà tôi lên xóm trên. Hình như trên đó đang xảy ra chuyện gì. Xỏ vội đôi dép cũ kỹ vào chân, tôi chạy theo một tốp phụ nữ. Đến gần nơi có con đường rẽ ngang, lối dẫn vào nhà ông Ba Mân, tôi thoáng thấy có hai chiếc xe công an đang đậu bên vệ đường. Cạnh đó là mấy người mặc quân phục an ninh đang làm nhiệm vụ. Trông thần thái ai ai cũng rất nghiêm trọng.

Hai bên đường từng đám phụ nữ bồng bế con nhỏ, và những đứa trẻ loai choai túm tụm bàn tán rì rầm, Tôi đến gần một nhóm phụ nữ quen biết để nghe ngóng tin tức. Có tiếng người hỏi:
- Chuyện gì đang xảy ra thế?
- Công an đang lục soát nhà ông Ba Mân.
- Vì chuyện gì chứ?
- Nghe đâu ông ta tham nhũng của công!
Có tiếng một người khác cảnh báo:
- Nói khẽ thôi! Công an tỉnh đang làm việc!
Tiếng xì xầm im bặt.

Tôi cố gắng len lỏi tiến về phía trước xem sao nhưng bị một anh công an chận lại. Chỉ còn cách đứng xa xa ngó vào ngôi nhà ông Ba Mân. Ngoài ngõ và trong sân có vài đồng chí công an đứng canh. Trong nhà im ắng, cửa đóng kín bưng.
Nhà ông Ba Mân thuộc về gia đình khá giả nhất làng. Trong khi mọi nhà khác đều làm bằng tranh vách đất thì nhà ông tường xây bằng gạch, mái lợp ngói đỏ, nền lát gạch hoa văn bát tràng. Cả xóm chỉ mỗi ông Ba Mân và xã đội trưởng là có cái đài bán dẫn Transistor. Trong nhà bàn ghế đều bằng thứ gỗ tốt, đánh vẹc-ni láng bóng. Đặc biệt nhà có nuôi một con chó bẹc-giê màu đen khá to đặt tên là Thiệu. Có lần thằng Mừng con ông dẫn chó đến nhà tôi chơi; tôi khen con chó cao lớn, oai dũng. Thằng Mừng khoái lắm, gọi Thiệu... Thiệu... và ra lệnh cho nó nằm yên; con chó răm rắp vâng lời. Tôi hỏi, sao chó của mầy đặt cái tên đẹp đẽ, giống tên người vậy. Nó cười ha hả, trả lời tôi rằng, ba nó chúa ghét ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nên đặt tên chó như thế chứ đẹp đẽ gi!

Ông Ba Mân làm phó phòng lương thực huyện nên của ăn của để dồi dào. Vợ kế ông là thư ký nơi ông làm việc. Bà vợ này kém ông chồng mười lăm tuổi, còn trẻ măng. Tôi nghe thằng Mừng kể gia đình nó trước ngày giải phóng sống trên núi cao. Mẹ nó bị bệnh sốt rét không có thuốc chữa nên chết sớm. Một năm sau cha nó tục huyền với bà mẹ kế bây giờ, nguyên là một cô gái công tác cùng đơn vị hậu cần.

Bà mẹ thằng Mừng chỉ sinh ra mỗi mình nó. Mẹ kế cũng chỉ sinh được một đứa con trai duy nhất đặt tên là Minh. Thằng bé trắng trẻo khác xa cha con ông Mân có màu da bánh mật. Tuy vậy thằng Mừng và cha nó cưng chìu thằng nhỏ hết mực. Đứa trẻ này hoạt náo, thông minh nhưng mạng yểu. Năm trước nó đã qua đời trong một tai nạn thương tâm. Nhà ông Mân ít người, hai vợ chồng đi làm việc trên huyện. Thằng Mừng đi học. Nên thằng bé ở nhà một mình với bà nội già của nó. Bà cụ mắt kém chân run không quản lý được thằng nhỏ sáu tuổi hoạt đầu. Nó chạy nhảy lục lọi khắp nơi. Không dè thằng bé vớ được khẩu súng ngắn của ba nó để nơi hộc tủ đầu giường. Cái tủ không khóa nên nó lấy khẩu súng ra chơi, ngậm vào miệng và bóp cò... Xảy ra án mạng, công an tỉnh về điều tra. Sự việc tưởng chừng cũng trôi qua với thời gian. Chẳng ngờ nhà ông Ba Mân gặp họa vô đơn chí. Sau khi công an tỉnh kết thúc điều tra, không biết vì buồn mất con hay chuyện gì bà vợ kế của ông bỏ nhà đi biệt. Ông Ba Mân chán đời do mất vợ, mất con sinh ra rượu chè bê tha, bỏ bê công việc...

Mặt trời đã gần đứng bóng. Cái nắng mùa hè ở miền Trung loang loáng đến lóa mắt. Những tia nắng nóng như lửa từ trên cao chiếu gần như vuông góc xuống mặt đường cát dội ngược lên rát cả mặt. Mọi người đã giải tán bớt, chỉ còn một số ít đang núp vào bóng râm của những bụi tre ven đường. Từ trong ngõ nhà ông Ba Mân, một tốp người bước ra. Đa số là công an mặc đồng phục xanh. Một người đi giữa dáng thấp lùn, bận chiếc áo cộc tay màu đen. Đầu ông ta cúi thấp, mái tóc điểm bạc che khuất khuôn mặt. Hai tay người ấy bị còng phía trước, mỗi bên tả hữu đều có một anh công an đi kèm. Nhóm người ra khỏi ngõ bước lên mấy chiếc xe, rời xóm. Mọi người đứng nép sát vệ đường để nhường cho đoàn xe chạy qua, rồi mới giải tán.

Từ ngày đó tôi không thấy thằng Mừng đến lớp nữa. Tôi nghe phong thanh rằng ông Ba Mân làm thâm hụt hơn một tấn thóc của huyện và bị tòa kết tội mười năm tù giam.

5/9/2022
Trần Đức Phổ
 
 







Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2022

Guyện Cái Đầu Hói hay Xem Phim 18+

 

CHUYỆN CÁI ĐẦU HÓI HAY XEM PHIM 18+
 
Các báo online của đảng cộng sản Việt Nam mấy hôm nay rầm rộ đưa tin Bộ công an đang ráo riết truy tìm cô gái lai-chim xúc phạm lãnh đạo cấp cao. Tò mò vì chẳng biết cô thiếu nữ còn trẻ tuổi này ăn gan hùm mật gấu thế nào mà dám vuốt đầu rồng... ủa lộn, râu rồng của các ông lớn, nên tôi vào mạng tìm hiểu sự việc cho rõ đầu đuôi. Các tờ báo chính thống đều chỉ nói vị nữ streamer này “xúc phạm” lãnh đạo thôi, còn xúc phạm như thế nào thì chẳng nói rõ. Phải tốn một ít thời gian tôi mới tìm được cái clip của cô này. Hóa ra cô ta làm đoạn clip chỉ nhằm trả lời một số còm-ment về chuyện ‘cái đầu... hói’ của một số đấng mày râu.
 
Đại khái, cô ta nói rằng, các ông bị hói... đầu là do xem phim 18+ quá nhiều. Ông nào càng nghiện thì đầu càng hói. Đặc biệt nhất là các ngài Chủ tịch thường bị hói đầu và hói nặng. Lý do: các vị này rảnh rỗi quá cỡ cho nên thường hay xem phim con lợn. Chỉ có thế!
Một cái lai-chim tầm phào như vậy mà cả Bộ công an cho rằng đã xúc phạm ngài chủ tịch tối cao của nhà nước Đông Lào nên vào cuộc để truy tìm cho bằng được cô gái kia thì thật đúng là chuyện ruồi bu bãi phân... lợn!
 
Thứ nhất cô gái chẳng nêu đích danh một vị chủ tịch nào. Chỉ bảo “các ông chủ tịch” rất ư là chung chung. Có thể là chủ tịch phường háo sắc, chủ tịch hội mê gái hoặc chủ tịch nước Nga chủ tịch nước Tàu. Đâu cứ hễ nói chủ tịch thì chăm phần chăm phải là chủ tịch Đông Lào? Và nên nhớ cô ấy nói CÁC ÔNG CHỦ TỊCH. Có nghĩa là không phải nói đến bác Bảy rồi. Vì chưng chỉ có một bác Bảy thì không thể là “các ông” được?
 
Thứ hai, quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ suy nghĩ của mỗi người được Hiến pháp bảo vệ. Cô ấy chỉ nói ra những gì cô cho là đúng, chưa hẳn điều đó là chân lý để mọi người phải tin và nghe theo.
Như vậy Bộ công an tìm bắt cô ta vì cho là bêu xấu lãnh đạo thì thật vô cùng phi lý. Hay là ở đây có thuyết âm mưu của một nhóm lợi ích nào đó nhằm phơi bày cái máu nghiện phim 18+ của bác Bảy? Mục đích hạ bệ bác ta trước thềm Hội nghị trung ương của đảng? Có lý lắm! Vì nếu Bộ công an không truy bắt cô nàng streamer thì chả ai biết cô ta nhằm vào bác Bảy nhà ta? Chỉ cần một chiêu này thôi có lẽ cái chuyện “miếng thịt bò dát vàng” hay hộ chiếu mới sẽ lui vào dĩ vãng, nhường chỗ cho “cái đầu hói” và “phim 18+” tung hoành trên mạng xã hội.
 
Mà tôi thử đặt giả thiết, (chỉ là giả thiết thôi nhé!) nếu cô ấy có nhằm vào bác Bảy kính yêu đi chăng nữa thì dân chúng cũng đếch thèm quan tâm. Đơn giản là vì các đấng liền ông ông nào lại chẳng khoái xem phim con lợn! Bác Bảy chẳng phải là bậc chơn tu. Dù đang ở địa vị cao của một giáo phái nhưng giáo phái này không có điều lệ cấm thú vui xác thịt hoặc ăn chay diệt dục. Thế thì bác ta có xem phim 18+ đi chăng nữa cũng ok salem! Mở ngoặc chỗ này là, nếu bác ấy chịu khó xem những loại phim như thế ở phòng ngủ với bà xã hoặc với bồ nhí. Cũng có thể xem nơi phòng riêng hoặc trong toilet trên chuyên cơ lúc đi công cán. Tuyệt đối không được xem ở chỗ nghị trường khi dân biểu đang họp bàn cách thu vàng trong dân.
 
Lợi ích của việc xem phim con lợn thì các ông các bà sồn sồn đều quá rõ! Nó giúp cho các ngài ấy sau một chầu bia rượu no say không cần món viagra cũng có thể thượng cờ tướng quân xông thẳng trận tiền nhằm làm vui lòng nội tướng quá đát hoặc cô đào măng tơ. Nó giúp các quý ngài giữ vững bản lĩnh đàn ông và làm các bà vui sống bên chồng. Thực tế thì nếu xem phim 18+ có bị phản ứng phụ mà hói đầu cũng rất đáng cho các ông xem. Biết đâu như thế các bà chẳng hạnh phúc hơn?
Trong các lần tranh World Cup trước kia, tôi để ý các bà cùng xem, hễ thấy trận nào có cầu thủ Ronaldo của Brazil đá mà giành được bóng thì y như rằng họ reo lên:
- Tui khoái thằng trọc này! Hễ nó lên là vào ngay!
 
Đấy! Hói là rất dũng mãnh! Thế thì em ấy có nói bác chủ tịch vì xem phim 18+ nhiều mà bị hói cũng là một cách khen bác ấy khỏe như vâm đấy ạ!
 
Ngày đầu tháng 9, 2022
Tú Điếc
 

 

Am Đồ Tỉnh, Anh Đồ Say

 

ANH ĐỒ TỈNH ANH ĐỒ SAY 
 
Lúc nãy lướt Facebook bắt gặp 2 câu thơ sau của thi sĩ Thanh Đang:
“Chưa say đã thấy hồ đồ
Chưa yêu đã thấy em là của tôi.”
 
Bất giác chợt nhớ đến ngài Chiêu Hổ. Không biết là ông đã say chưa, nhưng theo lời bà Hồ Xuân Hương thì quả thật ông đã hồ đồ lắm lắm. Hồ đồ đến nỗi bà Xuân Hương phải mắng yêu:
 
Anh đồ tỉnh anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!
 
Cái nghệ thuật chơi chữ của bà chúa thơ Nôm thì khỏi phải bàn rồi. Ở đây chỉ nói đến cái gan lỳ tướng quân của ngài thi sĩ. Giữa thanh thiên bạch nhật mà ông dám mó vào hang hùm thì quả thật đúng là gan to bằng... Chiêu Hổ! 
 
Các đấng trượng phu đi cua gái thường hay mượn chút cồn để dễ làm càn thì phải? Nếu lỡ có bị các nường phang cho một tát tay cũng còn có cớ đổ lỗi cho con ma men, chứ không phải do tính háo sắc của mình. Lý do này thường được các mỹ nhơn thông cảm. Phải chăng chính vì thế mà đàn ông rất khoái uống rượu có người đẹp hầu? Và thành ngữ “nam vô tửu như kỳ vô phong” được phát xuất từ thanh lâu?
 
Quay lại chuyện Hồ Xuân Hương với Chiêu Hổ. Bị người đẹp lỡm nhà thơ vẫn đối đáp một cách rất hào tifnh:
 
Này anh tỉnh này anh say
Này anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hùm ví bẵng không ai mó
Sao có hùm con ẵm chốc tay.
 
Sống ở đời, được cùng nhau đối thơ như thế này mỗi ngày thì xuân xanh còn mãi mãi.

2/9/2022
Tú Điếc
 

 

Chút Duyên văn Tự Với Thi Sĩ Luân Hoán

 

CHÚT DUYÊN VĂN TỰ VỚI THI SĨ LUÂN HOÁN
 
Trong friendlist Facebook, tôi vinh hạnh được kết bạn với khá đông nhà thơ nhà văn. Có nhiều vị trong số ấy, tôi may mắn được đọc thơ văn và biết đến tên tuổi của họ từ mấy mươi năm về trước. Có những người tôi chỉ vừa mới biết khi có Facebook. Tất cả đều tài hoa đáng cho tôi ngưỡng mộ và học hỏi. Trong các vị này, đặc biệt tôi có một chút duyên với thi sĩ Luân Hoán. Thế nên hôm nay tôi xin kể một vài mẩu chuyện mà tôi đã hân hạnh được làm quen với ông.
Năm 1990 Đại hội Văn bút Việt nam Hải ngoại lần thứ III được tổ chức tại Montreal. Nhà thơ Khải Chính Phạm Kim Thư đi dự Đại hội với tư cách đại diện cho Văn Bút Ontario. Đường từ London đến Montreal khá xa, lái xe phải mất cả tám giờ đồng hồ, nên ông rủ tôi tháp tùng cho vui. Chúng tôi đến vào buổi chiều hôm trước đại hội. Tại Đây chú Phạm Kim Thư giới thiệu cho tôi biết nhà văn Trà Lũ, Khải Minh, Diệp Chu Xẽ (Thư Sinh Quằn Quại)... Hai người sau chỉ lớn hơn tôi dăm ba tuổi vì thế dễ trở nên thân thiết. Diệp Chu Xẽ đang học lớp Cao đẳng Mỹ thuật. Khải Minh đã đi làm nên cuối tuần rảnh rỗi chở tôi dạo quanh Montreal. Một lần, sau khi đến đồi Mount Royal và dạo qua các con phố, Khải Minh hỏi tôi:
 
- Chú (em) có biết nhà thơ Luân Hoán không?
- Em chỉ đọc thơ bác ấy trên Làng Văn và Sóng.
- Tôi chở chú đến nhà ông ấy chơi nhé!
- Nhưng em không quen bác ấy!
- Đừng lo! Có mình mà!
 
Thế là anh ta chở tôi thẳng đến nhà thi sĩ. Hôm ấy chỉ thấy có mỗi mình bác Luân Hoán ở nhà. Ông dáng người hơi gầy, đúng là mẫu người thi nhân như tôi nghĩ, nhưng khỏe mạnh. Đặt biệt đôi mắt rất sáng, khiến tôi cũng hơi rụt rè mỗi khi nhìn thẳng vào mắt ông. Thi sĩ và Khải Minh nói chuyện. Tôi ngồi im, dựa ghế sô pha mà nghe, hỏi gì trả lời nấy chứ chẳng biết nói chi khác.
 
Chúng tôi ghé chơi chừng hai mươi phút rồi đi. Bác Luân Hoán chắc chắn chẳng biết tôi là ai. Nhưng với tôi, lần đầu tiên được gặp mặt một thi sĩ đã thành danh từ lâu thì vinh hạnh lắm. Tôi ghi nhớ mãi và nghĩ bụng nếu có dịp sẽ viết ra để khoe cùng mọi người. Lúc ra về Khải Minh còn nói sẽ chở tôi đến thăm viếng những văn thi sĩ khác mà anh biết.
 
Ngày thứ hai của Đại hội, không biết hậu trường có chuyện gì xảy ra mà kết quả kỳ Đại hội lần này bế mạc sớm hơn dự định một ngày. Thế là chuyện cho tôi quen biết các văn thi sĩ Montreal của Khải Minh cũng tan theo đại hội. Tiếc thật!
 
Năm 2017, trên Facebook tôi tình cờ thấy có nick Luân Hoán. Tò mò tôi vào xem thử có phải là nhà thơ Luân Hoán ở Montreaal không. Quả nhiên không sai! Tôi liền gửi lời kết bạn. Chỉ là gửi cầu may chứ không có nhiều hy vọng được chấp nhận. Bởi vì Facebook tôi lúc đó không dùng tên thật, ảnh đại diện là cháu tôi. Bạn bè toàn những người trẻ tuổi, chỉ có vài người biết làm thơ. Thật không ngờ lời ngỏ xin kết bạn được thi sĩ chấp nhận. Tôi rất vui! Ngày nào cũng đọc bài bác ấy viết. Một hôm, tôi đọc được thông báo sẽ cho in tuyển tập “Thơ Việt Đầu Thế Kỷ 21”. Tôi đánh bạo chọn lấy 5 bài thơ ôn hòa nhất, không có chính chị chính em gì của tôi gửi tham dự cầu may. Không ngờ cả 5 bài đều được chọn in. Thú thật, tôi rất vui sướng vì lần đầu tiên được góp mặt trong một tuyển tập danh giá như thế, lại do một thi sĩ kỳ cựu như bác Luân Hoán làm chủ biên. Sách in ra, tôi mua ngay một cuốn để khoe cùng gia đình và bạn bè.
 
Cũng nhờ qua trang Facebook Luân Hoán mà tôi biết đến trang Thư Viện Sáng Tạo của thi sĩ Bắc Phong. Nhà thơ Bắc Phong tôi đã nghe tiếng từ thời anh cho ra mắt tập “Chính Khí Ca”. Tôi liên lạc, gửi bài cho anh, và cũng đã được anh ưu ái cho đăng thơ hàng tuần trên Sáng Tạo, mãi đến ngày trang này đình bản.
 
Kết bạn với thi sĩ Luân Hoán lâu ngày tôi càng quý trọng ông hơn. Vì tôi biết được rằng ông đã sống ở Quảng Ngãi một thời gian, xem nơi ấy như là quê hương thứ hai, và ông cũng đã từng đổ xương máu trên mảnh đất nghèo quê tôi. Tôi là lớp hậu bối tập tò thơ văn không có cửa để nhận xét hay viết về văn thơ của ông, chỉ xin ghi lại mấy chuyện nho nhỏ do cơ duyên mà có dịp được kết bạn Phây với một cây đại thụ trong làng thi ca. Thơ của ông hay dở thế nào nhiều người đã biết và viết, tôi có thêm vài dòng cũng chỉ là vẽ rắn thêm chân, không khéo lại làm hư cả bức họa nên xin ngưng ở đây.
 
London 3.9.2022
Trần Đức Phổ


 

 

Ngày Bé Đọc ca Dao


NGÀY BÉ ĐỌC CA DAO
 
hai bài ca dao dài hơn bốn câu tôi thuộc lòng từ bé. Một là bài Trâu Ơi. Còn bài thứ hai ngày nay thấy trên mạng người ta đặt cho cái nhan đề: Lấy Chồng Sớm:
 
Lấy chồng từ thuở mười lăm,
Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi.
Đến khi mười tám đôi mươi,
Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.
Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường gãy một còn ba.
Ai về nhắn với mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao hoà cùng tôi. 
 
Tôi được đọc bài ca dao trên lần đầu tiên vào năm học lớp năm, lớp cuối cùng của bậc tiểu học, trong một dịp tình cờ. Đối diện nhà tôi ở quê là nhà của một người bà con trong họ. Một buổi chiều tôi sang đó chơi. Cả nhà đi vắng, chỉ có cô con gái út tên M. đang ngồi học bài nơi gian giữa. Cô này chỉ lớn hơn tôi một tuổi đang học lớp sáu. Nhưng theo vai vế trong họ tôi phải kêu bằng “bà cô”. Thấy trên tấm phảng có cuốn sách dày cộp (nếu tôi nhớ không lầm đó là cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” thì phải,) tôi liền mở ra đọc cọp. Cái bài tôi đọc được bữa ấy chính là bài ca dao nói trên. Ngày nay thấy người ta đề tựa là “Lấy chồng sớm” hoặc “Lấy chồng từ thuở mười lăm”. Nhưng lúc đó những bài ca dao tôi thấy trong sách đều không có nhan đề. Đọc xong tôi hỏi ‘bà cô’:
- Cô đọc bài này chưa?
- Bài nào?
Tôi đọc to cả bài một lần. Nghe xong, bà cô liền “xĩ” một tiếng và phán:
- Đọc chi cái bài tào lao đó!
Cho dù chẳng hiểu hết nội dung ý từ bài thơ, nhưng tôi hồi nhỏ không thích mấy đứa con gái tỏ ra khôn hơn mình cho dù là bà cô cũng vậy, nên cãi:
- Hay mà! ... Nhưng có chỗ tui không hiểu!
- Không hiểu chỗ nào?
Tôi đọc lại cái chỗ không hiểu cho bà cô trẻ nghe:
- Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường gãy một còn ba.
Lạ quá! ... Sao nói thương mà lại gãy cả chân giường? ... Tui không hiểu!
Bà cô đỏ cả mặt, giật cuốn sách trong tay tôi đang cầm và đuổi tôi về:
- Thôi, về đi cho tao học bài!
 
Tôi ra về mà bụng còn thắc mắc mãi về cái câu thơ chết tiệt trên! Tôi nghĩ chắc có lẽ là do cái giường ọp ẹp nên không đủ sức chứa trọng lượng của hai người cùng năm lên chứ gì? Hoặc giả cái chốt tre lâu ngày teo lại, còn cái lỗ mộng rộng thêm ra nên bị lỏng cũng nên? Nghĩ như vậy tôi cho là đúng nên không còn thắc mắc gì nữa.
 
Năm học lớp chín, mấy đứa bạn của tôi không biết cũng đã đọc được ở đâu bài ca dao trên (vì sách Trích giảng văn học không có dạy), rồi đem ra bàn tán. Lúc này, bọn tôi đều lớn tồng ngồng rồi, mười sáu mười bảy tuổi cả nên cũng biết đôi chút về chuyện gái trai. Một đứa nói:
- Cái anh chồng này cũng vũ phu gớm!
- Sao lại nói thế?
- Cô vợ nằm dưới đất, chồng không bế lên giường lại “lôi” lên mà không vũ phu à?
- Nhưng nhỡ cô vợ béo tốt còn anh chồng ốm yếu thì sao?
- Mầy đần vừa thôi! ... Có bốn chân giường làm cho gãy một còn ba mà ốm yếu à?
Cả bọn cười ồ tán thưởng!
 
Khi đã có vợ rồi, một hôm ngồi nghĩ ngợi vẩn vơ tôi chợt nhớ đến bài ca dao trên, đọc lẩm nhẩm cho vui, tôi mới chợt phát hiện một điều quan trọng thú vị.
 
Ai về nhắn với mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao hoà cùng tôi.
 
A, thì ra chị này cũng đáo để thật! Mới mười lăm mười bảy tuổi đầu anh chồng không ngó ngàng gì đến đã phật lòng về nhà méc với cha mẹ rồi! Thế thì mười chín đôi mươi được chồng thương không gãy chân giường mới lạ! Tuy anh chồng có hơi vũ phu chút đỉnh nhưng giọng điệu của chị không hề trách cứ giận hờn mà còn sung sướng khoái trá khi được “giao hòa” nữa nghen. Ai dám bảo phụ nữ ngày xưa là thiếu lửa trong chuyện vợ chồng?

Tôi ngẫm nghĩ mãi cái chữ "nhắn"  trong câu áp chót, nó mới hay làm sao!. Người đọc có thể nhận ra rằng chị này đã "ăn quen bén mùi" rồi nên chẳng   đành lòng xa anh chồng vài hôm để về nhà mẹ!
 
Tôi đọc bài ca dao trên nhiều lần, mỗi lần lại chỉ hiểu tí chút. Quả thật người xưa làm ca dao rất tuyệt vời. Tôi dám chắc rằng thời xưa dân ta không hề biết thủ pháp “Show do not tell” nhưng nhiều bài ca dao đã thể hiện tài tình kỹ thuật này. Bài Lấy Chồng Sớm là một điển hình. Toàn bài không nói đến mây mưa, ân ái, nụ hôn cháy bỏng, vòng tay siết chặt... khong cần từ ngữ tục tiũ gì ráo, nhưng đọc xong ai cũng hiểu được chuyện gối chăn của cặp vợ chồng này nồng nàn, lên đỉnh như thế nào! Ngày nay có một số người đi rao giảng thi pháp “Show do not tell” nhưng tôi đọc thơ họ chỉ thấy toàn “Tell and tell.” Thật ra làm thơ không quan trọng ở chỗ dùng thủ pháp nào, miễn sao nó chuyên chở được ý nghĩa và cảm xúc đến với người đọc là ok. Thuyền nan hay ca-nô đều độ được người qua sông, cốt yếu chúng không chết máy hoặc gãy chèo giữa dòng.
 
4/9/2022
Tú Điếc


 


Thứ Năm, 1 tháng 9, 2022

Thơ Mình Vợ Người

 

Tôi nghe câu “thơ mình vợ người” cách đây đã 35 năm trong một lần không phải là tình cờ nói chuyện vui với một vị cựu giáo sư văn khoa, ông Khải Chính Phạm Kim Thư. Ngày đó tôi chân ướt chân ráo từ bên đảo mới qua Canada đang rất hăng hái tham gia công việc cộng đồng. Ông Khải Chính đương làm chủ tịch Hội Người Việt thành phố London kiêm phụ trách tờ đặc san Người Việt London của hội. Khi chúng tôi tham gia vào hội, chú ấy giao tờ đặc san lại cho tôi và anh Nguyễn Thanh Đạm. Tết năm 1988 chúng tôi cho ra mắt số báo xuân. Thanh Đạm chịu trách nhiệm xin bài và xin quảng cáo từ các chợ của người đồng hương. Còn tôi đánh máy và layout cho tờ đặc san. Nhà thơ Khải chính đem in và phân phối vì chỉ mỗi mình ông là có xe.

Lúc ấy, thuyền nhân mới đến định cư ở London tham gia gởi bài rất đông. Có cả mấy bác lớn tuổi ở thành phố khác gửi bài vở đến. Một hôm, tôi đánh máy bắt gặp một bài thơ bảy chữ rất hay nói về nỗi buồn ly hương. Nhan đề bài thơ là lấy từ câu đầu. Đó là một câu cảm thán nhưng tác giả không đánh dấu than. Tôi đọc đi đọc lại hai ba lần để cảm nhận cho đầy đủ ý tứ của bài thơ và cả nhan đề. Đúng là một bài thơ bi ai làm não lòng người. Tôi hỏi anh Thanh Đạm có nên thêm dấu chấm than vào cái nhan đề không, vì câu mở đầu cũng y chang lại có dấu than! Thanh Đạm bảo tôi cứ thêm vào đi, có lẽ tác giả vô ý bỏ sót! Người gửi bài không đề số điện thoại liên lạc nên tôi đành tự ý thêm vào mà không xin ý kiến. Tập san in ra được hơn tháng, một hôm chú Phạm Kim Thư gặp tôi trách móc:
- Sao cháu sửa thơ của ông L.H.H. ở Calgary?
- Cháu có sửa thơ của ai đâu?
- Sửa cái nhan đề ấy! Thêm dấu cảm thán vào, cháu nhớ không?
-Dạ... cháu tưởng ông ấy bỏ sót. Cháu xin lỗi!
- Ông ấy vừa gửi thư complain chú đấy! Lần sau đừng làm như thế! – Nói rồi ông đọc hai câu thơ của ông cho tôi nghe:

“Xưa nay thế thái nhân tình
Vợ người thì đẹp, thơ mình lại hay”
Đấy, cháu hiểu chưa?

Thật ra cái nhan đề có dâu câu hay không có dấu câu hoàn toàn không làm thay đổi nội dung bài viết. Nhưng tác giả đã viết như thế thì nên tôn trọng họ. Có điều lúc bấy giờ tôi còn trẻ và hiểu biết nông cạn nên đã làm ẩu theo ý mình. Vâng! Thơ mình dĩ nhiên là phải hay rồi! Nếu không hay thì “thơ thẩn” làm chi cho nó mất thì giờ. Con người ta chỉ sống tối đa ba vạn sáu ngàn ngày chứ mấy! Mà một phần ba thời gian đã dùng để ngủ, một phần ba còn lại phải lo kiếm cơm ăn áo mặc, chỉ có một phần ba còn lại là để enjoy thôi. Cho nên đã thơ thẩn thì phải thẩn thơ cho ra hồn. Ngày xưa người ta còn dùng thơ văn để kiếm chút công danh nữa kìa. Bởi vậy nếu thơ mình mà mình cảm thấy nó không hay thì ma nào chịu đọc, làm sao thi đỗ công danh? Các cụ ngày trước chẳng đã từng nói rồi đó sao:

Văn chương phú lục chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho xong!

Vâng! Thơ mình vợ người. Câu này chưa hẳn là nhằm chỉ trích cái thói hư hay “khoe mẽ” và mê sắc lạ của thi nhân đâu! Nó chỉ phản ảnh một thực trạng tâm lý của những người có cá tính tự tin mạnh mẽ. Hoặc có ý chê trách nhẹ nhàng cái nết ngông của giới văn chương. Cho dẫu các nhà thơ có khiêm tốn đến thế nào đi nữa, trong thâm tâm họ chắc chắn rằng thơ của họ chẳng thua ai. Hoặc có thua đề tài này thì cũng hơn về đề tài khác. Tôi luôn luôn thích tìm đọc những nhà thơ có tính khí kiêu ngạo, kiểu:

Ta là Một là Riêng là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cũng ta!
Hy Mã Lạp Sơn – Xuân Diệu

Hay:
“Bởi ông hay quá ông không đỗ!”
Tự Trào – Tản Đà

Chơi Facebook tôi gặp nhiều người chẳng dám nhận mình là nhà thơ, tôi cũng là một trong số đó, vì tự nghĩ thơ mình chưa đạt. Có người lại chê không muốn người khác gọi mình là nhà thơ vì có quá nhiều người được gọi như thế. Lại có người tự cho mình là đại bàng thi sĩ, có thể đoạt được giải Nobel dễ dàng nếu có ai đó chuyển ngữ thơ họ. Những người này nếu thật sự có tài làm được việc đó thì chắc chắn rằng làng thơ Việt Nam vui sướng biết bao nhiêu. Chỉ sợ lực bất tòng tâm, dễ bị người ta cười mắc bệnh “vĩ cuồng” . Tôi thích câu “thơ mình vợ người” bởi nó bộc lộ tâm lý thật, không giả dối cái kiểu giả vờ khiêm tốn để người khác tâng bốc mình. Nhưng cũng chúa ghét những kẻ hợm hĩnh tự đem thơ của mình ra bình rồi khen lấy khen để theo tinh thần 'tự sướng.’ Cái kiểu không ai khen ta thì chính ta khen ta đúng theo cách của bác Trần Dân Tiên. Nói thơ mình vợ người chỉ là cái “ngông” đáng yêu, còn ví mình là đại bàng thi sĩ là cái “cuồng” đáng ghét. Vì thế nên mới có bài thơ rằng:

Đại Bàng Thi Sĩ

Có một loài đại bàng
Hay nổi máu khoe khoang
Vỗ ngực và xòe cánh
Là vút đến thiên đàng

Loài đại bàng chột mắt
Tưởng mình rất tinh anh
Nhìn trời lại hóa đất
Tưởng thấu đến non xanh

Loài đại bàng giả hiệu
Cứ ngỡ mình thiên tài
Chuyện trên đời đều hiểu
Không còn ai ngang vai

Loài đại bàng mồm mép
Ba hoa có ích gì?
Có giỏi hãy chơi đẹp
Đoạt giải Nobel đi?

Ôi, đại bàng thi sĩ
Chữ nghĩa là con dao
Đừng giỡn mặt như thế
Có ngày chết bỏ bu!

London, cuối hạ 2022
Trần Đức Phổ