Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2022

Nghề Mành Sơn Ở Quê Tôi

 

NGHỀ MÀNH SƠN Ở QUÊ TÔI
 
Ngày trước ở quê, tôi thường nghe người ta hay đọc một câu vè mà không biết nó có từ lúc nào:
Ai ăn bánh ít lá tra
Lấy chồng Quảng Ngãi bám cây chà mành sơn!
 
Bánh ít lá tra? Tôi chưa từng ăn. Tôi chỉ được ăn bánh ít lá gai, bánh ít trần, còn bánh ít lá tra tôi chỉ nghe người ta nói đến trong câu vè trên. Nhưng cây chà mành sơn thì tôi quá rành rẽ. Bởi thuở nhỏ vào những dịp nghỉ hè tôi đã từng nhảy theo những chiếc thuyền mành để làm thủy thủ tập sự. Xã tôi ở nằm dọc theo bờ Biển Đông, từ đầu này đến đầu kia của xã dài hơn chục cây số. 
 
Ngoài một số con tàu chạy bằng dầu có chỗ đậu ở của Mỹ Á, dọc theo bờ là bến bãi của nhưng chiếc thuyền và những cái mủng nan. Loại phương tiện này nhiều vô kể, lớn nhỏ đủ kích cỡ. Người dân quê tôi không gọi là thuyền mà gọi là ghe. Chiếc ghe bé nhất dài chừng 3-4 mét, bề ngang chừng 1.8 mét; còn ghe lớn nhất cũng chỉ dài và rộng gấp đôi. Loại ghe này được đan đát bằng tre cật già, đủ độ bền và dẻo dai để chịu được sóng gió. Khi đan xong còn phải trát ba lần phân bò bên ngoài và trong cho kín các khe hở. Sau đó chờ cho khô lại phết thêm hai lớp dầu rái chống thấm nước. Những chiếc ghe lớn theo phong tục ở quê tôi khi làm xong đều phải điểm nhãn. Mắt ghe được vẽ ở đầu mũi. Mỗi bên một con, kiểu mắt phượng, đầu tròn đuôi dài và nhọn. Lòng mắt được sơn hai màu đen trắng. Vành mắt đôi khi viền đen hoặc xanh đậm. Bên mỗi be thuyền có một hàng ba cái cọc quay chèo, phía trái thêm cọc chèo lái. Các cọc chèo được xếp theo hàng dọc so le nhau. Chính giữa ghe là cột buồm, chỉ khi nào đi lưới ngaoif khơi mới cần căng buồm lên. Ghe ở làng chài tôi không thả neo ngoài biển, không về cửa đậu mà được dùng đòn khiêng xoay vần lên bãi cát trong bờ sau mỗi buổi ra khơi. Tờ mờ sáng hôm sau lại khiêng xuống nước. Có lẽ vì là bãi ngang nên sóng gió bất ngờ, ghe neo ngoài nước không người trông coi dễ bị sóng đánh chìm hoặc vỡ. Còn về cửa Mỹ Á thì đi lại bất tiện.
 
Vì sống với sóng gió, tai ương không thể lường trước được nên ngư dân ở đây rất kiếng cữ. Có khi những điều kiêng cữ ấy quá phi lý đã trở thành mê tín dị đoan nhưng không ai dám bất tuân. Ví như lúc sắp khởi hành không ai được đi ngang qua trước mũi ghe, hoặc bước ngang qua cây chèo lái. Không được đem trái thị có mùi thơm của cô Tấm ra biển. Không được nói “chạy tuốt” mà phải nói “chạy tắp” v.v... Tất cả những điều kể trên đều bị cho là xúi quẩy. Kẻ nào lỡ vi phạm tuy không bị đánh đòn nhưng sẽ bị mắng là “Đồ ở núi!” Đó là một câu chửi rất nặng nề ở quê tôi. Có ý nghĩa như thứ dân mọi rợ chẳng biết gì.
 
Tuy là mặt biển rộng mênh mông, không ranh giới nhưng các vùng nước cách xa bờ vài hải lý đều có chủ quyền sở hữu cả. Dưới mặt nước xanh kia là những rặng san hô ngầm. Thật ra các chủ ghe không sỏ hữu mặt nước mà là các rặng san hô này. Mỗi một rặng san hô đều có tên gọi hẳn hòi, và được xác định tọa độ bằng cách lấy vị trí của các ngọn núi trong bờ làm chuẩn. Hàng năm các ông chủ rạng phải xuống Ủy ban xã đăng ký quyền sử dụng và đóng thuế cho nhà nước rồi mới được khai thác. Để sử dụng các rặng san hô cho có hiệu quả người ta tìm cách dụ hải sản quanh vùng về rạng của mình. Cách làm cũng đơn giản giống như thả chà ở sông. Nhưng về mặt kỹ thuật hơi khác chút đỉnh. Cụ thể, ngư dân dùng một cây tre đằng ngà to và dài, xung quanh có buộc bốn sợi dây thừng cũng rất dài đối xứng nhau. Những sợi dây thừng này được đánh bằng ruột tre chuốc thành sợi nhỏ, kết hợp với cọng cỏ lát khô cho tăng thêm độ bền. Dây thừng được đánh thật săn chắc, cứ mỗi đoạn cách nhau một cánh tay lại cột vào đấy mấy rẻ chà là đã phơi khô. Một đầu thừng buộc vào cây tre đằng ngà; đầu còn lại buộc vào cái giỏ cần xé to đùng có lót rơm xung quanh, và dồn cát biển vào trong ruột thật chặt. Tất cả những thứ ấy được chở ra biển và thả xuống rạng để làm “nhà” cho cá ở. Cứ vài ba tháng ngư dân lại phải làm một căn nhà mới để bổ sung. Những cái cây tre trụi lá do người tạo, mọc trên biển như thế được gọi là “cây chà mành sơn”.
 
Phương thức đánh bắt hải sản cũng có rất nhiều cách. Chẳng hạn như đi câu, thả bóng (một loại lờ bắt cá, cua, mực... ở biển, có dạng khối vuông, mỗi cạnh chừng 2m), đánh lưới... Nhưng thịnh hành nhất ở quê tôi là nghề mành sơn. Mỗi chiếc ghe mành gồm một ông chủ, luôn luôn là người cầm chèo lái, và sáu người bạn chèo. Cứ tờ mờ sáng là cùng nhau đẩy ghe ra biển. Đánh bắt đến xế trưa thì quay trở lại bờ. Sản phẩm thu được đem về chia phần ghe và giàn mành chiếm một nửa. Phần còn lại chia đều cho bạn và chủ ghe. 
 
Thuở thiếu niên tôi cũng đã từng theo ghe mành vài lần vì muốn biết cái nghề mành sơn nó như thế nào . Khi mặt trời còn chưa ló dạng, phương đông chỉ mới ửng hồng, mọi người đã lục tục quay ghe xuống mép nước. Thủy thủ chia ra hai bên mạn thuyền “gay” chèo vào cọc, sẵn sàng nghe lệnh. Khi có một con sóng ngã vào bờ, chờ đúng lúc con sóng rút ra, chủ thuyền hô “Đẩy!” thì tất cả mọi người cùng khom lưng dồn hết sức đẩy mạnh cho chiếc ghe lao xuống nước. Khi ghe bắt đầu nổi lên khỏi mặt cát cũng là lúc mọi người thót nhanh lên thuyền, cầm vội lấy cây chèo, chèo thật cật lực. Bình thường sóng êm gió nhẹ thì chiếc ghe sẽ lướt phăng phăng rời bờ. Nhưng nhiều hôm có gió to sóng lớn ghe bị đánh xoay ngang, nước biển tràn vào khoang thì vất vả hơn nhiêu. Thủy thủ phải nghiêng ghe đổ nước hoặc dùng gàu tát cạn rồi mới tiếp tục cuộc xuất hành. Bởi thế khi biển hơi có sóng thủy thủ chỉ mặc có mỗi một chiếc quần cộc và để lưng trần. Nếu sóng lớn quá thì tạm nghỉ biển một bữa.
 
Khi đã đến vùng để đánh bắt, hai cái chèo ở khoang giữa được gỡ ra. Giàn mành sơn bằng sợi ni-lông (thời xưa hơn là sợi gai) được hai người cầm chèo giữa thả xuống nước. Những người khác vẫn tiếp tục chèo vì ghe không thả neo. Giàn lưới từ từ chìm xuống mặt biển xanh. Tấm lưới mành xòe ra trông giống như một cái đãy lớn, miệng rộng đuôi úm lại để chứa cá tôm. Ba sợi dây ni-lon lớn bằng ngón tay cái cột ở miệng lưới được giữ lại nơi be thuyền, để lát sau kéo mành lên. Lúc này ông mặt trời đã hiện ra nơi đường chân trời. Những tia nắng hồng ấm áp chiếu rọi khắp nơi. Thủy thủ gác chèo lên be, và mở những gô cơm ra ăn sáng. Chủ ghe vẫn đứng cầm lái, chốc chốc lại khua chèo khuấy nước một lần để giữ cho chiếc ghe khỏi trôi xa vị trí thả lưới. Chỉ khi nào có ai đó cầm chèo thay thì chủ ghe mới nghỉ ngơi để ăn sáng.
 
Chừng hơn một tiếng đồng hồ sau, bốn thủy thủ xúm lại kéo lưới lên. Giàn mành từ từ lộ ra dưới làn nước trong xanh. Dù còn cách mặt nước khá xa đã thấy những con cá đang bị tấm lưới dồn ép quây quần lại với nhau thành đàn. Lưới được kéo lên cao chừng nào đàn cá càng túm tụm lại với nhau chừng nấy. Ở rặng san hô có nhiều loại cá khác nhau, đủ các loại màu sắc đen, vàng, hồng, cam, trắng... bị lùa về phía cuối đãy mỗi lúc một nhanh. Tôi thấy chúng thật tội nghiệp, nhưng đám thủy thủ thì reo hò vui vẻ. Cá nhiều quá! Chủ ghe sợ cái đãy chứa không hết, cá sẽ tràn ra ngoài nên sai một anh thủy thủ trẻ tuổi nhảy xuống nước, dùng một khúc tre dài làm phao nắm lấy cái dây ở miệng đãy mà kéo lên để giữ cho cá khỏi tràn ra ngoài. Hai người đàn ông lực lưỡng hè hụi nâng đãy cá lên khỏi mặt biển và đổ cái ào vào khoang. Mọi người nói cười vui vẻ, đánh giá mẻ lưới đầu tiên như thế là quá tốt. Chiếc ghe lúc kéo lưới bị luồng nước và gió trôi đi hơi xa vùng san hô nên mọi người vội vàng cheo vòng lại chỗ cây tre chà. Mẻ lưới thứ hai lại được tiếp tục thả xuống. Mãi đén lúc không còn thu hoạch được gì chiếc ghe mới rời đi đến vùng rạng khác. Thường thì mỗi chủ ghe sở hữu hai ba vùng đánh bắt. Hôm nay có cá nhiều đến xế trưa họ mới trở vào bờ. 
 
Buổi trưa phụ nữ và các cô gái đem cơm ra biển cho chồng con, ngồi đợi trong những cái chòi rơm. Sau khi ghe đã được đưa lên bãi, thủy thủ khiêng những sọt cá lên chòi. Cá được đổ ra trên một tấm liếp lớn, và hai anh ngư dân phụ trách đong chia cho mọi người. Trong lúc đàn ông nghỉ ngơi ăn cơm thì đàn bà nhận phần cá của chồng con mình, gánh đến chợ bán hoặc san lại cho những người chạy rỗi (bạn hàng mua bán cá). 
 
Cuộc sống hàng ngày cách đây bốn mươi, năm mươi năm ở cái làng chài quê tôi diễn ra như vậy. Nhưng ngày nay tất cả đã khác xưa. Ngư dân đã đóng những chiếc tàu to đùng, đi đánh bắt những vùng biển khơi xa. Bãi biển không còn bóng dáng một chiếc ghe mành nào, mà chí có những vuông tôm xả nước thải đen ngòm và hôi thúi ra một vùng biển đầy thơ mộng với nhiều nét đẹp hoang sơ.
 
26/8/2022
Trần Đức Phổ
 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.