Tác giả: Trần Đức Phổ
Tôi không phải mang dòng họ Chế
Vẫn tâm tư vận nước Chiêm Thành
Đồng điệu với dân Hời có lẽ
Cùng lưu vong trên chính quê mình?
Cô gái Việt làm dâu Chiêm quốc
Bảy trăm năm hồn vẫn đi về
Cháu con bà ai còn ai mất?
Thành quách xưa chẳng dấu tích gì!
Ô, có phải Chiêm nương quá đẹp
Lả lơi dâng điệu múa nghê thường
Đôi tay ngà rót chung rượu ngọt
Làm nhụt lòng, giảm chí quân vương?
Từ lúc Chế Bồng Nga tử trận
Những trai hùng tướng giỏi nơi đâu?
Biển réo gọi chiến thuyền vượt sóng
Rừng xanh mơ tiếng rống voi chầu
Những ngọn tháp của thời hưng thịnh
Nay tan hoang đổ nát rêu phong;
Những vị thần linh thiêng dũng mãnh
Bị thu hồi bí tích thần thông?
Những đóm lửa ma Hời thấp thoáng
Đang tìm về với núi sông xưa,
Ca khúc “Hận Đồ Bàn” bi tráng
Cũng chỉ buồn, nuối tiếc vu vơ!
17/06/2022
Vẫn tâm tư vận nước Chiêm Thành
Đồng điệu với dân Hời có lẽ
Cùng lưu vong trên chính quê mình?
Cô gái Việt làm dâu Chiêm quốc
Bảy trăm năm hồn vẫn đi về
Cháu con bà ai còn ai mất?
Thành quách xưa chẳng dấu tích gì!
Ô, có phải Chiêm nương quá đẹp
Lả lơi dâng điệu múa nghê thường
Đôi tay ngà rót chung rượu ngọt
Làm nhụt lòng, giảm chí quân vương?
Từ lúc Chế Bồng Nga tử trận
Những trai hùng tướng giỏi nơi đâu?
Biển réo gọi chiến thuyền vượt sóng
Rừng xanh mơ tiếng rống voi chầu
Những ngọn tháp của thời hưng thịnh
Nay tan hoang đổ nát rêu phong;
Những vị thần linh thiêng dũng mãnh
Bị thu hồi bí tích thần thông?
Những đóm lửa ma Hời thấp thoáng
Đang tìm về với núi sông xưa,
Ca khúc “Hận Đồ Bàn” bi tráng
Cũng chỉ buồn, nuối tiếc vu vơ!
17/06/2022
Trả lờiXóaCảm nhận về bài thơ “Cảm Tác Ca Khúc ‘Hận Đồ Bàn’”
của AI
Bài thơ “Cảm Tác Ca Khúc ‘Hận Đồ Bàn’” của Trần Đức Phổ gợi lên những cảm xúc sâu lắng về sự suy tàn của vương quốc Chiêm Thành, đồng thời thể hiện nỗi hoài niệm và cảm thương về một thời kỳ lịch sử vàng son đã lụi tàn. Qua ngôn từ giàu cảm xúc và hình ảnh gợi hình, tác giả đã làm sống lại những ký ức bi hùng về một nền văn hóa từng rực rỡ nhưng nay chỉ còn là dấu vết mờ nhạt.
Tác giả bắt đầu bằng lời thổ lộ chân thành: dù không mang dòng máu Chăm, ông vẫn đồng cảm sâu sắc với vận mệnh bi thương của dân tộc này. Nỗi đau bị mất nước, bị lưu vong trên chính quê hương mình không chỉ là câu chuyện của người Chăm, mà còn là bi kịch chung của những dân tộc nhỏ bé trước sức mạnh áp đảo của thời cuộc.
Hình ảnh cô gái Việt làm dâu đất Chiêm và những vũ điệu, rượu ngọt của Chiêm nương trở thành biểu tượng của một nền văn hóa đầy quyến rũ, nhưng cũng khiến lòng quân vương bị lung lay, để rồi đất nước rơi vào lụi tàn. Tác giả khéo léo đan xen giữa thực và mộng, giữa hoài niệm và tiếc nuối.
Những câu thơ cuối, với hình ảnh “những đốm lửa ma Hời thấp thoáng” và “Ca khúc ‘Hận Đồ Bàn’ bi tráng,” là lời khép lại đầy xót xa. Dường như tác giả không chỉ tiếc nuối quá khứ huy hoàng của Chiêm Thành mà còn cảm nhận được sự mong manh của lịch sử và văn hóa trước sự tàn phá của thời gian.
Bài thơ đã thành công khơi gợi lòng trắc ẩn và sự suy ngẫm về những giá trị văn hóa đang phai mờ, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.