Thứ Ba, 27 tháng 6, 2023

Bất Khuất

 Phỏng dịch: Trần Đức Phổ

Có một bài thơ được rất nhiều nhà đấu tranh chính trị hồi thế kỷ trước, như Nelson Mandela chẳng hạn, lấy làm kinh nhật tụng lúc ở trong tù để làm nguồn động viên cho mình không đầu hàng trước nghịch cảnh. Đó là bài “Invictus” của nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học người Anh, William Ernest Henley (1849-1903). Ông sáng tác bài thơ năm 1875, và ra mắt trong cuốn “Book of Verse” năm 1888, không có nhan đề. Sau này, biên tập viên cuốn “The Oxford Book of English Verse,” mới đặt tựa là ‘Invictus’, trong tiếng La-tinh có nghĩa là 'bất khuất'.
.
 
INVICTUS
By William Ernest Henley
 
Out of the night that covers me,
Black as the pit from pole to pole,
I thank whatever gods may be
For my unconquerable soul.
 
In the fell clutch of circumstance
I have not winced nor cried aloud.
Under the bludgeonings of chance
My head is bloody, but unbowed.
 
Beyond this place of wrath and tears
Looms but the Horror of the shade,
And yet the menace of the years
Finds and shall find me unafraid.
 
It matters not how strait the gate,
How charged with punishments the scroll,
I am the master of my fate,
I am the captain of my soul.
.
 
BẤT KHUẤT
Phỏng dịch: Trần Đức Phổ
 
Vây phủ quanh ta là đêm đen
Tối như chậu úp khắp trời đất
Ta cảm ơn Phật, Chúa, Thần Tiên
Đã giúp tinh thần ta bất khuất
 
Trong cảnh đời sa cơ, thất thế
Chẳng khóc than, mặt chẳng hề cau
Dùi cui đánh u đầu, mẻ trán
Nhất định không, quyết chẳng cúi đầu
 
Vượt rất xa đau thương, phẫn nộ
Nỗi kinh hoàng lấp ló nơi đây
Quanh năm chúng gầm gừ, đe dọa
Vẫn không làm run sợ thân này
 
Mặc kệ cổng thiên đàng nhỏ hẹp
Mặc kệ cho bản án dài, tuyên
Cuộc đời ta do ta làm chủ
Linh hồn ta ta lái, đương nhiên!
 
21/6/2023
 

 

Làm Sao Nói Hết Nỗi Yêu Anh

Trần Đức Phổ phỏng dịch


HOW DO I LOVE THEE? (SONNET 43)
Elizabeth Barrett Browning
1806 – 1861
 
How do I love thee? Let me count the ways.
I love thee to the depth and breadth and height
My soul can reach, when feeling out of sight
For the ends of being and ideal grace.
I love thee to the level of every day’s
Most quiet need, by sun and candle-light.
I love thee freely, as men strive for right.
I love thee purely, as they turn from praise.
 
I love thee with the passion put to use
In my old griefs, and with my childhood’s faith.
I love thee with a love I seemed to lose
With my lost saints. I love thee with the breath,
Smiles, tears, of all my life; and, if God choose,
I shall but love thee better after death.
.
 
LÀM SAO NÓI HẾT NỖI YÊU ANH 
 
Làm sao nói hết nỗi yêu anh
Cao, rộng, thâm sâu một mối tình
Xa mặt nhưng lòng ta chẳng cách
Kể gì đầu bạc hoặc đầu xanh
Em yêu anh lặng lẽ ngày thường
Như yêu ngọn nến, yêu vầng dương
Yêu anh như kẻ yêu chân lý
Tinh khiết, tự do, chẳng dị lòng
 
Em yêu anh với cả đắm say,
Nỗi đau, tín ngưỡng tuổi thơ ngây
Tình yêu thấm đẫm trong hơi thở
Như tín đồ yêu Chúa mỗi ngày
Nụ cười, nước mắt, cuộc lai sinh
Nếu được tương phùng lại yêu anh.
 
24/6/2023
 

 


Một Đóa Hồng Thắm, Đỏ

 Trần Đức Phổ phỏng dịch

Hoa hồng, nhất là hoa hồng đỏ, luôn được các nhà thơ phương Tây đem ví con với tình yêu hoặc người yêu của họ, bởi sự nồng nàn, sang quý và lộng lẫy của nó. Nhưng trong văn chương cái gì được sử dụng nhiều đều trở thành nhàm chán, sáo rỗng. Để tránh sự mòn sáo ấy, thi sĩ Robert Burns đã khôn khéo dùng liên tiếp hai tính từ ‘đổ’ (red) trong một bài thơ tình của ông, vừa làm cho nó khác lạ đi, lại vừa nhấn mạnh thêm vào sự nồng nàn, đẹp đẽ của người ông yêu. Đó là bài “A Red, Red Rose.” Để dịch nhan đề cho sát với ý tác giả, tôi xin tạm dựa theo mặt chữ để dịch là “Một đóa hồng thắm, đỏ.” Giữa chữ thắm và đỏ có ngăn cách bởi dấu phẩy nhằm tránh hiểu lầm là tính từ ghép.
.
 
A RED, RED ROSE
By Robert Burns (1759 – 1796)
 
O my Luve is like a red, red rose
That’s newly sprung in June;
O my Luve is like the melody
That’s sweetly played in tune.
 
So fair art thou, my bonnie lass,
So deep in luve am I;
And I will luve thee still, my dear,
Till a’ the seas gang dry.
 
Till a’ the seas gang dry, my dear,
And the rocks melt wi’ the sun;
I will love thee still, my dear,
While the sands o’ life shall run.
 
And fare thee weel, my only luve!
And fare thee weel awhile!
And I will come again, my luve,
Though it were ten thousand mile.
.
 
MỘT ĐÓA HỒNG THẮM, ĐỎ 
 
Nàng như một đóa hồng thắm, đỏ
Vừa mới đơm bông tháng sáu về
Nàng như khúc nhạc du dương đó
Ôi, ngọt ngào giai điệu đam mê
 
Nàng đẹp xinh như tranh mỹ thuật
Anh yêu nàng tha thiết, sâu xa
Và anh sẽ còn yêu nàng mãi
Biển cạn khô, tình vẫn đậm đà
 
Nàng dấu yêu! Cho dù biển cạn
Đá có tan dưới nắng mặt trời
Anh vẫn cứ yêu nàng vô hạn
Dẫu cát kia trôi hết trên đời
 
Tạm biệt nàng, người yêu duy nhất
Tạm xa nhau phút chốc đấy thôi,
Anh sẽ về như anh đã hứa
Dù chúng mình vạn dặm xa xôi.
 
25/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch
 

 

Nếu Anh Phải Yêu Em, Thì Xin Chớ

Trần Đức Phổ phỏng dịch


IF THOU MUST LOVE ME, LET IT BE FOR NOUGHT
(SONNET 14)
By Elizabeth Barrett Browning
 
If thou must love me, let it be for nought
Except for love's sake only. Do not say
I love her for her smile ... her look ... her way
Of speaking gently, ... for a trick of thought
That falls in well with mine, and certes brought
A sense of pleasant ease on such a day'—
For these things in themselves, Belovèd, may
Be changed, or change for thee,—and love, so wrought,
 
May be unwrought so. Neither love me for
Thine own dear pity's wiping my cheeks dry,—
A creature might forget to weep, who bore
Thy comfort long, and lose thy love thereby!
But love me for love's sake, that evermore
Thou may'st love on, through love's eternity.
.
 
NẾU ANH PHẢI YÊU EM, THÌ XIN CHỚ 
 
Nếu anh phải yêu em, thì xin chớ
Trừ khi yêu chỉ cốt để yêu thôi
Đừng bảo yêu vì miệng cười, mắt ngó
Cách nói dịu êm… trí tuệ tuyệt vời
Những gì đồng cảm hẳn rồi tàn lụi
Niềm sướng vui ngắn ngủi như ngày! —
Tất cả đều là phù du, anh hỡi
Và tình yêu rồi cũng sẽ đổi thay
 
Sẽ chẳng đáng cho anh thương hại thế
Đừng yêu em bởi muốn lau khô dòng lệ
Em không còn khóc nữa sẽ lãng quên
Ai là người an ủi, vỗ về em
Hãy yêu em vì tình yêu, anh nhé!
Thứ tình yêu luôn trường cửu, vững bền.
 
26/6/2023
 

 

Thứ Tư, 21 tháng 6, 2023

Cửa Mỹ Á

Tác giả: Trần Đức Phổ

Nơi sông Thoa và biển Đông tiếp xúc
Núi Cửa trầm ngâm, lặng lẽ cạnh bên
Những mỏm đá như chiến binh khôi giáp
Đứng trang nghiêm mặc kệ sóng vỗ ghềnh

Đầm Mỹ Á mặt gương trong tĩnh lặng
Đoàn thuyền ghe như dán ngược vào trời
Chim hải âu từng đàn tung mây trắng
Theo cánh buồm lộng gió hướng ra khơi

Dưới gốc đa lá xanh um cổ thụ
Chợ ven sông người tấp nập bán mua
Những sọt cá vảy còn tươi sắc bạc
Chen chúc cùng ruốc, mực, ghẹ, tôm, cua…

Nơi doi đất mấy ngư dân vá lưới
Lưng đồng hun dội nắng sớm ban mai
Một ông lão ung dung ngồi nhả khói
Dõi mắt theo đứa nhỏ tập vung chài

Ôi, Mỹ Á! Cái tên sao mà đẹp
Ta ra đi, hãy chờ đón ta về
Như sóng biển vẫn nhớ bờ da diết
Con thuyền nào không nhớ cửa sông quê?

1980-2023

* Bài này sáng tác năm 1980, nay chép lại theo trí nhớ, có sửa chữa, bổ sung.
 
 


Mất Cha

Tác giả: Trần Đức Phổ

Năm hai năm trước ngày này
Cha tôi mất lúc đạn bay Sa Huỳnh
Nghe như trời sập thình lình
Cút côi đứa trẻ mới lên chín, mười
Gọi thầm hai tiếng Cha ơi!
Trái tim tan nát lệ rơi ngắn dài
Bể dâu mấy cuộc đổi thay
Nổi chìm phận mọn năm hai năm ròng
Con đi muôn dặm núi, sông
Vẫn không tìm được cội tùng bóng cha
Đời con nửa thế kỷ qua
Lênh đênh đâu cũng vẫn là mồ côi!

Sunday, June 18, 2023, Father’s Day 
 
 

 

Thơ Tụng Ca Chim Họa Mi

Tác giả: Trần Đức Phổ & John Keats

 

 
Sáu bài thuộc thể loại Thơ tụng ca (Ode) của thi sĩ John Keats đều là những bài thở nổi tiếng của ông, trong đó có bài ‘Ode to a nightingale’. Đây là bài thơ dài nhất, gồm 8 khổ thơ, mỗi khổ 10 câu. Nội dung nổi bật trong đó là sự mâu thuẫn giữa: thực tại / mơ mộng, cái chết / sự sống, đâu khổ / vui sớng… cùng lúc sảy ra trong tâm tư tác giả khi nghe tiếng hót của chim họa mi, và cảm khái về căn bệnh nan y của chính ông. Để rồi cuối cùng ông tự hỏi và chẳng thể trả lời được rằng mình đang tỉnh hay đang mê?
Bài thơ được John Keats sáng tác chỉ trong một vài tiếng đồng hồ khi đang ngồi nghỉ ngơi dưới một gốc mận và bất chợt nghe tiếng chim họa mi hót thánh thót từ một cành cây nào đó vào mùa hè năm 1819.
.

ODE TO A NIGHTINGALE
by John Keats (1795-1821)

My heart aches, and a drowsy numbness pains
My sense, as though of hemlock I had drunk,
Or emptied some dull opiate to the drains
One minute past, and Lethe-wards had sunk:
‘Tis not through envy of thy happy lot,
But being too happy in thine happiness,
That thou, light-winged Dryad of the trees,
In some melodious plot
Of beechen green and shadows numberless,
Singest of summer in full-throated ease.

O, for a draught of vintage! that hath been
Cool’d a long age in the deep-delved earth,
Tasting of Flora and the country green
Dance, and Provençal song, and sunburnt mirth!
O for a beaker full of the warm South,
Full of the true, the Hippocrene,
With beaded bubbles winking at the brim,
And purple-stained mouth;
That I might drink, and leave the world unseen, blushful
And with thee fade away into the forest dim:

Fade far away, dissolve, and quite forget
What thou among the leaves hast never known,
The weariness, the fever, and the fret
Here, where men sit and hear each other groan;
Where palsy shakes a few, sad, last gray hairs,
Where youth grows pale, and spectre-thin, and dies;
Where but to think is to be full of sorrow
And leaden-eyed despairs,
Where Beauty cannot keep her lustrous eyes,
Or new Love pine at them beyond tomorrow.

Away! away! for I will fly to thee,
Not charioted by Bacchus and his pards,
But on the viewless wings of Poesy,
Though the dull brain perplexes and retards:
Already with thee! tender is the night,
And haply the Queen-Moon is on her throne,
Cluster’d around by all her starry Fays;
But here there is no light,
Save what from heaven is with the breezes blown
Through verdurous glooms and winding mossy ways.

I cannot see what flowers are at my feet,
Nor what soft incense hangs upon the boughs,
But, in embalmed darkness, guess each sweet
Wherewith the seasonable month endows
The grass, the thicket, and the fruit-tree wild;
White hawthorn, and the pastoral eglantine;
Fast fading violets cover’d up in leaves;
And mid-May’s eldest child,
The coming musk-rose, full of dewy wine,
The murmurous haunt of flies on summer eves.

Darkling I listen; and, for many a time
I have been half in love with easeful Death
Call’d him soft names in many a mused rhyme,
To take into the air my quiet breath;
Now more than ever seems it rich to die,
To cease upon the midnight with no pain,
While thou art pouring forth thy soul abroad
In such an ecstasy!
Still wouldst thou sing, and I have ears in vain
To thy high requiem become a sod.

Thou wast not born for death, immortal Bird!
No hungry generations tread thee down;
The voice I hear this passing night was heard
In ancient days by emperor and clown:
Perhaps the self-same song that found a path
Through the sad heart of Ruth, when, sick for home,
She stood in tears amid the alien corn;
The same that oft-times hath
Charm’d magic casements, opening on the foam
Of perilous seas, in faery lands forlorn.

Forlorn! the very word is like a bell
To toll me back from thee to my sole self!
Adieu! the fancy cannot cheat so well
As she is fam’d to do, deceiving elf.
Adieu! adieu! thy plaintive anthem fades
Past the near meadows, over the still stream,
Up the hill-side; and now ’tis buried deep
In the next valley-glades:
Was it a vision, or a waking dream?
Fled is that music: – Do I wake or sleep?
.

THƠ TỤNG CA CHIM HỌA MI

Tim ta đau, và dại tê choáng váng
Cảm giác như nốc độc dược chán chê
Hoạc đã đổ thuốc phiện vào mương máng
Một phút thôi là chìm xuống sông Mê
Ta chẳng tị ganh cùng ngươi hạnh phúc
Nhưng chạnh đau, ngươi vui sương tràn trề
Ngươi đích thị là nàng tiên Dryad
Với những bài ca thánh thót mê ly
Trên những cây sồi rợp xanh bóng mát
Cất giọng cao trong trẻo nhất mùa hè

Ôi, ta mơ có một vò mỹ tửu
Ủ sâu trong lòng đất lạnh ngàn năm
Ngửi hương Hoa, và đồng xanh sắc cỏ
Nhảy múa, cợt đùa, khúc hát bình dân
Mơ cốc vang nồng ấm áp miền Nam
Ngập hương vị của đất trời phương đó
Lấp lánh đầy bọt bong bóng sủi tăm
Và màu nho còn vương môi sắc tím
Ta đỏ mặt, rời thế giới, lặng câm
Cùng với ngươi biến mất giữa rừng đêm

Biến thật xa, biệt tăm, và quên lãng
Chuyện thuộc về ngươi cây lá chẳng hay
Sự mỏi mòn, nỗi lo âu, ấm lạnh
Đây, nơi họ ngồi than thở cùng nhau
Nơi vài sợi tóc bạc, buồn, run rẩy
Nơi xanh xao, tuổi trẻ chết héo gầy
Nơi tâm tư chỉ toàn là ngao ngán,
Tuyệt vọng khiến cho mắt nặng như chì
Nơi Sắc đẹp không làm ngời đôi mắt
Tình hờ không gắn bó đến ngày mai

Bay đi! Bay đi! Ta bay rheo ngươi
Không bằng cánh những Thần Men Rượu
Nhưng bằng đôi cánh tàn hình Thơ Phú
Dù trí óc cùn bối rối, chây lười
Sẵn sàng cùng ngươi! Màn đêm êm ái
Và Chị Hằng Nga có lẽ đã lên ngôi
Lung linh quanh nàng bầy sao Tiên nữ
Nhưng chỗ này ánh sáng chửa đến nơi
Ngọn gió mát cách ngăn tiên với tục
Qua màu xanh u ám, lối rêu quanh

Ta chẳng biết loài hoa gì dưới đất
Và hương chi dìu dịu máng trên cành
Nhưng ta đoán bóng tối thường đem ướp
Vị ngọt thơm tháng mùa vụ riêng dành
Bãi cỏ, bụi lùm, trái cây hoang dã
Táo gai trắng, và hồng dại rừng xanh
Loài hoa tím mau phai trong kẽ lá
Hoa hồng hương già cỗi giữa tháng năm
Đẫm sương đêm thoang thoảng mùi men rượu
Những đêm hè, lũ ruồi nhặng săn tìm

Bóng tối ta lắng nghe, và nhiêu lần
Dâng hiến nửa trái tim cho Quỹ sứ
Vần thơ ta kêu tên hắn dịu dàng,
Lặng lẽ hòa chút hơi vào sự sống
Nay thần chết dường như đã viếng thăm
Ta thanh thản lìa đời trong khuya khoắt
Giữa lúc ngươi tuôn khúc hát tri âm
Ôi tuyệt vời! Ôi say mê, ngây ngất!
Ngươi vẫn hát nhưng tai ra vô ích
Nhạc cầu siêu thành lớp cỏ hoang tàn

Ngươi không chết! Hỡi, loài Chim Bất tử
Không thế hệ nào dẫm đạp lên ngươi
Tiếng ngươi hót đêm nay còn nghe mãi
Như ngày xưa vua chúa đã từng nghe
Có lẽ chính bài hát xa xưa ấy
Thấu tim buồn, nàng Ruth nhớ cố hương
Nàng đứng, lệ rơi giữa đồng ngô lạ
Lời hát kia đã vẳng đến tai nàng
Cửa ma thuật mở ra trên bọt sóng
Của biển nguy, cô độc đất thiên đàng

Cô độc! Lời như hồi chuông cảnh tỉnh
Giã từ ngươi, ta về lại chính ta
Vĩnh biệt nhé! Đừng lừa nhau hư ảnh
Ngươi cũng là một thứ tiểu yêu ma
Vĩnh biệt nhé! Bài thương ca văng vẳng
Qua đồng cỏ gần, băng trên suối sâu
Ngược lên sườn đồi, và giờ rớt xuống
Những lũng, những rừng kế tiếp với nhau
Đó là mắt thấy, hay là du mộng?
Khúc nhạc đã tàn: – Ta tỉnh hay mê?

19/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 
 

Bài Tụng Ca Mùa Thu

Tác giả: Trần Đức Phổ & John Keats

1. DẪN

‘To Autumn’ là bài tụng ca mùa thu, cũng là bài thơ cuối cùng của John Keats. Khác với nhiều thi sĩ xưa nay thường gán cho mùa thu gắn liền với nỗi buồn, với niềm hiu quạnh, và sự ảm đạm khi đất trời sắp chuyển sang đông; John Keats trong tác phẩm này lại cho rằng mùa thu là mùa thu hoạch, mùa của niềm vui vì sự sung túc, và là mùa tích trữ lương thực cho ngày đông lạnh giá. Với góc nhìn khác lạ, và những hình ảnh, âm thanh, hương vị được tác giả chọn lọc cân nhắc khi sử dụng đã khiến bài Tụng ca mùa thu này được nhiều người khen ngợi, và được đánh giá là bài thơ hoàn hảo nhất của John Keats. Cấu trúc của thi phẩm gồm ba đoạn, mỗi đoạn có 11 dòng, theo thể ode. Điểm đặc biệt là mỗi đoạn lại tương ứng với một thời kỳ của mùa thu. Phần đầu: sơ thu, giữa: trung thu, và cuối: tàn thu.
Riêng tôi, vì là một người được sinh ta và lớn lên ở nông thôn nên mới đọc đã thích bài thơ này.
.

2. NGUYÊN TÁC

TO AUTUMN
By John Keats

Season of mists and mellow fruitfulness,
Close bosom-friend of the maturing sun;
Conspiring with him how to load and bless
With fruit the vines that round the thatch-eves run;
To bend with apples the moss'd cottage-trees,
And fill all fruit with ripeness to the core;
To swell the gourd, and plump the hazel shells
With a sweet kernel; to set budding more,
And still more, later flowers for the bees,
Until they think warm days will never cease,
For Summer has o'er-brimm'd their clammy cells.

Who hath not seen thee oft amid thy store?
Sometimes whoever seeks abroad may find
Thee sitting careless on a granary floor,
Thy hair soft-lifted by the winnowing wind;
Or on a half-reap'd furrow sound asleep,
Drows'd with the fume of poppies, while thy hook
Spares the next swath and all its twined flowers:
And sometimes like a gleaner thou dost keep
Steady thy laden head across a brook;
Or by a cyder-press, with patient look,
Thou watchest the last oozings hours by hours.

Where are the songs of Spring? Ay, where are they?
Think not of them, thou hast thy music too,—
While barred clouds bloom the soft-dying day,
And touch the stubble-plains with rosy hue;
Then in a wailful choir the small gnats mourn
Among the river sallows, borne aloft
Or sinking as the light wind lives or dies;
And full-grown lambs loud bleat from hilly bourn;
Hedge-crickets sing; and now with treble soft
The red-breast whistles from a garden-croft;
And gathering swallows twitter in the skies.
.

3. PHÓNG TÁC

BÀI TỤNG CA MÙA THU

Là mùa của trái, và sương
Bạn bè chí cốt vầng dương tuổi già
Hợp mưu cống hiến chúng ta
Giàn nho trĩu trái là đà mái tranh
Những cây táo trái oằn cành
Từ ngoài vỏ chín ngon lành tới trong
Bí, bầu, nướp… xếp chất chồng
Ngổn ngang trên đất, hạt trăn ngọt ngào
Hoa thơm, nụ búp lao xao
Khiến đàn ong mật bay vào bay ra
Dường như bọn chúng tưởng là
Mùa hè ấm áp chưa qua bao giờ

Ai mà chẳng biết Nàng Thu
Về là lúa chín, đầy bồ ngô khoai
Nàng ngồi bên khoảng sân phơi
Tóc mềm như liễu gió trời nhẹ bay
Trên đồng lớp rạ rơm dầy
Mùi hoa anh túc làm ngây ngất lòng
Nàng Thu lướt nhẹ một vòng
Như người thợ gặt qua dòng suối con
Hoặc đang kiên nhẫn đứng dòm
Từng giờ máy ép táo thơm giọt đều

Đâu rồi khúc nhạc xuân thiều?
Xin đừng nghĩ nữa, nàng yêu kém gì,—
Như hoa - mây trắng khác chi
Ngày tàn ánh nắng đỏ hoe đất đồng
Buồn hiu nhạc khúc muỗi mòng
Dọc theo bờ liễu ven sông dập dềnh
Và đàn cừu béo rống lên
Dế mèn rỉ rả dịu êm, ngọt ngào
Vườn quê lảnh lót chào mào
Đàn chim én cũng liệng chao trên trời.

20/6/2023
Trần Đức Phổ phóng tác 
 

 

Thứ Bảy, 17 tháng 6, 2023

Trước Biển Cả


 
1. DẪN

Tai nghe tiếng sóng vỗ bờ rì rầm như lời thì thầm bất tận. Mắt gặp một màu xanh biêng biếc, mênh mông tiếp giáp tận chân trời. Mặt biển duềnh lên, đầy ăm ắp nước như có thể đổ đầy hai vạn thủy động trong nháy mắt. Trên bãi biển vắng lặng, mấy con dã tràng vô tư se cát. Làn gió mát nhẹ nhàng lao xao. Một khung cảnh nên thơ như thế dành cho những con người quanh năm sống nơi đô thị thư giản, xua tan nỗi phiền muộn, âu lo trong lòng thì mới tuyệt vời làm sao! Thiên nhiên quả là kỳ tuyệt và hữu ích với con người. Đó là nội dung bài Sonnet On The Sea của thi sĩ John Keats, một nhà thơ thuộc trường phái Lãng mạn thế hệ thứ hai trong văn học Anh, cùng với Lord Byron và Percy Bysshe Shelley.
.

2. THƠ

ON THE SEA
By John Keats (1795 – 1821)

It keeps eternal whisperings around
Desolate shores, and with its mighty swell
Gluts twice ten thousand caverns, till the spell
Of Hecate leaves them their old shadowy sound.
Often 'tis in such gentle temper found
That scarcely will the very smallest shell
Be mov'd for days from whence it sometime fell,
When last the winds of heaven were unbound.
Oh ye! who have your eye-balls vex'd and tir'd,
Feast them upon the wideness of the Sea;
Oh ye! whose ears are dinn'd with uproar rude,
Or fed too much with cloying melody,--
Sit ye near some old cavern's mouth, and brood
Until ye start, as if the sea-nymphs quir'd!
.

3. PHỎNG DỊCH

TRƯỚC BIỂN CẢ

Biển vẫn cất lời thầm thì vĩnh cữu
Quanh bờ hoang, và mạnh mẽ triều cường
Nuốt được hai lần mười nghìn hang động
Cho đến khi có tiếng gọi Long vương
Thường thì biển vẫn nhẹ nhàng êm ả
Ít khi nào tổn hại vật li ti
Con ốc thích tự do bò ngang ngửa
Ngọn gió trời chẳng ràng buộc làm chi
Ôi! Mắt ai đang ưu tư, mệt mỏi
Hãy ngắm nhìn cảnh Biển rộng bao la
Ôi! Tai ai điếc vì lời nghiệt ngã,
Hoặc quá nhiều những bản nhạc sến sua
Hãy ngồi xuống bên cửa hang động cũ
Bắt đầu nghe nàng tiên cá hát ru.

15/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 

Cuộc Đời Chúng Ta Và Bống Tối

Tác giả: Trần Đức Phổ & Emily Dickinson

Thơ của Emily Dickinson không hề dễ dịch, bởi nó đa nghĩa và ssu sắc. Đồng thời bà sử dụng nhiều biện pháp tu từ làm cho ý thơ phức tạp, nhiều tầng nhiều lớp mặc dù lơi thơ vẫn bình dị,. Chẳng hạn như bài “We grow accustomed to the Dark” dưới đây là một ví dụ. Ngay cái tựa đề đã làm cho chúng ta phải suy ngẫm về thân phận con người trước những bất trắc, tuyệt vọng trong cuộc sống của mỗi người.
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu và diễn Nôm một bài thơ hay của Emily Dickinson cùng các bạn.
.

1.NGUYÊN TÁC

WE GROW ACCUSTOMED TO THE DARK
by Emily Dickinson

We grow accustomed to the Dark -
When Light is put away
As when the Neighbor holds the Lamp
To witness her Good bye –

A Moment - We Uncertain step
For newness of the night
Then - fit our Vision to the Dark -
And meet the Road - erect –

And so of larger - Darknesses -
Those Evenings of the Brain -
When not a Moon disclose a sign -
Or Star - come out - within –

The Bravest - grope a little -
And sometimes hit a Tree
Directly in the Forehead -
But as they learn to see –

The Bravest - grope a little -
And sometimes hit a Tree
Directly in the Forehead -
But as they learn to see –

Either the Darkness alters -
Or something in the sight
Adjusts itself to Midnight -
And Life steps almost straight.
.

2.PHỎNG DỊCH

CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VÀ BỐNG TỐI

Chúng ta lớn dần quen cùng Bóng tối–
Theo mỗi lần Ánh sáng tắt lịm đi
Như lúc Hàng xóm cầm Đèn chứng kiến
Cái phút giây Tử biệt hoặc sinh ly–

Chính Lúc đó – bước chân ta Ngần ngại
Bởi vì chưng ánh sáng mới lóe lên
Rồi – Bóng tôi quay về ta lại Thấy –
Gặp đúng con Đường – ngước mặt tiến lên

Và Bóng tối – càng tối tăm hơn nữa–
Như Đêm đen trong Trí não con người–
Lúc không có vầng Trăng soi hiện hữu–
Và vì Sao chẳng xuất hiện đúng nơi.

Kẻ gan nhất – cố ít nhiều mò mẫm–
Và đôi khi bị va vấp vào Cây–
Như cú đánh trúng thẳng vào giữa Trán–
Học cách nhìn họ chấp nhận đắng cay–

Bước vào Bóng tối để mà thay đổi–
Hoặc còn trông, còn thấy một điều gì
Tự điều chỉnh để nhìn vào Đêm tối–
Rồi Cuộc đời cũng thẳng được bước đi.

14/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 

Dĩ Vãng Tìm Về

Tác giả: Trần Đức Phổ & Dante Gabriel Rossetti

SUDDEN LIGHT
By Dante Gabriel Rossetti

I have been here before,
But when or how I cannot tell
I know the grass beyond the door,
The sweet keen smell,
The sighing sound, the lights around the shore.
You have been mine before,—
How long ago I may not know:
But just when at that swallow’s soar
Your neck turned so,
Some veil did fall,—I knew it all of yore.
Has this been thus before?
And shall not thus time’s eddying flight
Still with our lives our love restore
In death’s despite,
And day and night yield one delight once more?
.

DĨ VÃNG TÌM VỀ

Anh đã sống ở nơi này thuở trước
Nhưng lúc nào, không nhớ rõ ngọn ngành
Anh chỉ biết phía xa ngoài khung cửa
Mùi hương ngọt ngào, màu cỏ biếc xanh
Tiếng thở dài, những ngọn đèn quanh bãi.
Em ngày xưa là chỉ của riêng anh,—
Bao lâu rồi, anh chẳng còn nhớ nữa:
Nhưng khi nhìn cánh én vụt bay nhanh
Cũng lúc đó em vừa quay nghiêng mặt
Mạng che rơi,— quá khứ hiện nguyên hình.
Đã như thế những tháng ngày xưa ấy?
Đúng không em, khi ta ngược thời gian
Cuộc đời ta, tình yêu mình phục dựng
Bất chấp ngày, đêm, lưỡi hái tử thần
Thêm một lần lại vui thú tình nhân?

13/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 
 

 

Thứ Tư, 14 tháng 6, 2023

Thứ Hai, 12 tháng 6, 2023

Lên Đồi (Uphill)

Tác giả: Trần Đức Phổ & Christina Rossetti

“Uphill” (Lên Đồi) là một bài thơ đa nghĩa, ẩn dụ bóng bẩy về hành trình của cuộc đời mỗi con người, và cái chết. Nó giống như một khách bộ hành đi ngược dốc lên đồi. Nữ thi sĩ Christina Rossetti đã mượn lời hỏi và đáp của hai nhân vật để làm thành một bài thơ giảng giải về cuộc sống và cái chết thật nhẹ nhàng và cũng đầy thi vị.
.
1. NGUYÊN TÁC

UPHILL
By Christina Rossetti

Does the road wind up-hill all the way?
- Yes, to the very end.
Will the day’s journey take the whole long day?
- From morn to night, my friend.

But is there for the night a resting-place?
- A roof for when the slow dark hours begin.
May not the darkness hide it from my face?
- You cannot miss that inn.

Shall I meet other wayfarers at night?
- Those who have gone before.
Then must I knock, or call when just in sight?
- They will not keep you standing at that door.

Shall I find comfort, travel-sore and weak?
- Of labour you shall find the sum.
Will there be beds for me and all who seek?
- Yea, beds for all who come.
.

2. PHỎNG DỊCH

LÊN ĐỒI

Con đường dốc ngược đồi lên tới đỉnh?
- Vâng! Nó lên đến tận chỗ cuối cùng
Liệu đi suốt một ngày dài sẽ đến?
- Từ tinh mơ cho đến tối mịt mùng

Nhưng chắc có nơi nghỉ đêm chứ ạ?
- Một mái nhà khi bóng tối vừa buông
Có thể màn đêm che mờ nơi đó?
- Quán trọ kia nhìn thấy rõ bên đường

Tôi có gặp khách bộ hành nào khác?
- Những người đã đi trước bạn đến đây
Tôi có cần gọi, hoặc là gõ cửa?
- Họ sẽ không để bạn đứng bên ngoài

Tôi có được thuốc chống đau, giảm mệt?
- Nỗi gian lao sòng phẳng tính một lần
Sẽ có đủ giường nằm cho mỗi khách?
- Vâng! Đủ đầy cho tất cả cựu, tân.

12/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 

Nàng Lê Thị Băng Thanh

Tác giả: Trần Đức Phổ & Edgar Allan Poe

Bài thơ “Annabel Lee” là tác phẩm cuối cùng của thi hào Edgar Allan Poe, nó được xuất bản sau khi ông mất ít lâu. Nhiều người cho rằng đây là bài thơ tình hay nhất trong văn chương Anh ngữ.
Dưới đây là nguyên tác tiếng Anh, và bản phóng tác sang tiếng Việt.
.
1. NGUYÊN TAC

ANNABEL LEE
By Edgar Allan Poe

It was many and many a year ago,
In a kingdom by the sea,
That a maiden there lived whom you may know
By the name of Annabel Lee;
And this maiden she lived with no other thought
Than to love and be loved by me.

I was a child and she was a child,
In this kingdom by the sea,
But we loved with a love that was more than love—
I and my Annabel Lee—
With a love that the wingèd seraphs of Heaven
Coveted her and me.

And this was the reason that, long ago,
In this kingdom by the sea,
A wind blew out of a cloud, chilling
My beautiful Annabel Lee;
So that her highborn kinsmen came
And bore her away from me,
To shut her up in a sepulchre
In this kingdom by the sea.

The angels, not half so happy in Heaven,
Went envying her and me—
Yes!—that was the reason (as all men know,
In this kingdom by the sea)
That the wind came out of the cloud by night,
Chilling and killing my Annabel Lee.

But our love it was stronger by far than the love
Of those who were older than we—
Of many far wiser than we—
And neither the angels in Heaven above
Nor the demons down under the sea
Can ever dissever my soul from the soul
Of the beautiful Annabel Lee;

For the moon never beams, without bringing me dreams
Of the beautiful Annabel Lee;
And the stars never rise, but I feel the bright eyes
Of the beautiful Annabel Lee;
And so, all the night-tide, I lie down by the side
Of my darling—my darling—my life and my bride,
In her sepulchre there by the sea—
In her tomb by the sounding sea.
.

2. PHÓNGTÁC

NÀNG LÊ THỊ BĂNG THANH

Rất nhiều năm, nhiều năm về trước
Nơi vương quốc bên bờ biển xanh
Một khuê nữ có lẽ bạn biết
Tên nàng là Lê thị Băng Thanh
Cô gái trẻ hồn nhiên vui sống
Nàng và tôi chung một mối tình

Tôi còn trẻ, và nàng cũng trẻ
Nơi vương quốc bên bờ biển xanh
Yêu say đắm, và còn hơn thế
Tôi và nàng Lê thị Băng Thanh
Đã khiến cho trời già ghen tức
Với cuộc tình đẹp đẽ như tranh

Và đó là lý do, thuở ấy
Nơi vương quốc bên bờ biển xanh
Gió, mây đen phun ra, ớn lạnh
Giết chết nàng Lê thị Băng Thanh
Thân thích nàng cao sang đã đến
Mang nàng đi, và bỏ lại tôi
Họ đem chôn nàng vào mộ tối
Nơi vương quốc bên bờ biển xanh

Những thiên thần buồn chán ở Thiên đình
Đã ganh tỵ với tôi va nàng ấy
Vâng! Đó là lý do (Mọi người đều biết
Nơi vương quốc bên bờ biển xanh)
Cơn gió lạnh phun ra từ đám mây, đêm tối
Giết chết nàng Lê thị Băng Thanh

Nhưng tình yêu của chúng tôi mãnh liệt
Hơn những cuộc tình của các bậc đàn anh
Hơn những người rất đỗi thông minh
Không thiên thần trên trời cao thẳm
Không quái thú dưới đáy biển xanh
Có thể rẽ chia đôi hồn yêu say đắm
Của tôi và Lê thị Băng Thanh

Còn vầng trăng kia, tôi còn mơ mộng
Vẻ đẹp của nàng Lê thị Băng Thanh
Dù sao không mọc, vẫn sáng lấp lánh
Đôi mắt tuyệt vời Lê thị Băng Thanh
Hằng đêm tôi vẫn được nằm bên cạnh
Cô dâu — đời tôi, người tôi yêu dấu
Nơi mộ của nàng bên bờ biển xanh —
Nơi mộ của nàng sóng biển rì rầm.

11/6/2023
Trần Đức Phổ phóng tác 
 

 

Sonnet 18

Tác giả: Trần Đức Phổ & William Shakespeare

1. DẪN

Trong số 154 bài sonnets của William Shakespeare thì bài Sonnet 18 là nổi tiếng nhất, được nhiều người thích nhất, và cũng gây nhiều tranh cãi nhất. Bài này thuộc phần đầu Fair Youth (Vẻ đẹp của trai trẻ) gồm từ bài 1 đến bài 126 được cho là thuộc nhóm thơ tình. Bởi vậy, nhiều người nghĩ nhân vật chính trong Sonnet 18 hoặc là nam thanh, hoặc là nữ tú. Nhưng cũng có người bảo rằng Shakespeare đã tụng ca vẻ đẹp của tuổi trẻ. Lại có người nói bài thơ nhằm mục đích vinh danh chính nó.
Sonnet 18 được nhiều người dịch sang tiếng Việt. Đa phần họ dùng đại từ ‘em’ khi nói về nhân vật chính. Trong khi đó, mạng tiếng Anh phân tích cho rằng chủ thể bài thơ là nam nhân. Bởi vậy, để cho được trung tính như trong nguyên tác Anh ngữ, tôi dùng đại từ xưng hô ‘bạn’ trong bản phỏng dịch này.
.

2. THƠ

SONNET 18
By William Shakespeare

Shall I compare thee to a summer's day?
Thou art more lovely and more temperate:
Rough winds do shake the darling buds of May,
And summer's lease hath all too short a date:

Sometime too hot the eye of heaven shines,
And often is his gold complexion dimm'd;
And every fair from fair sometime declines,
By chance, or nature's changing course, untrimm'd;

But thy eternal summer shall not fade
Nor lose possession of that fair thou ow'st;
Nor shall Death brag thou wander'st in his shade,
When in eternal lines to time thou grow'st;

So long as men can breathe or eyes can see,
So long lives this, and this gives life to thee.
.

3. PHỎNG DỊCH

SONNET 18

Có cần sánh bạn với ngày nắng hạ?
Vẻ mỹ miều, và điềm tĩnh bạn hơn
Gió tháng năm làm run run búp lá
Ngày mùa hè quá ngắn ngủi, khô khan

Có đôi lúc vầng dương soi nóng rát,
Sắc nắng vàng thường nhợt nhạt, mờ phai
Mọi vẻ đẹp đều có phần giảm sút
Bởi tình cờ trời đất bỗng đổi thay

Hạ thắm tươi của bạn là vô tận
Chẳng mất đâu sở hữu nét đẹp riêng
Tử thần cũng không làm chi được bạn
Khi vĩnh hằng không giới hạn lớn lên

Người còn thở, hoặc mắt còn nhìn thấy
Thơ này còn, thì bạn còn sống mãi

8/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 

Thứ Tư, 7 tháng 6, 2023

Sonnet 116

Tác giả: Trần Đức Phổ & William Shakespeare

SONNET 116
By William Shakespeare

Let me not to the marriage of true minds
Admit impediments. Love is not love
Which alters when it alteration finds,
Or bends with the remover to remove.

O no! it is an ever-fixed mark
That looks on tempests and is never shaken;
It is the star to every wand’ring bark,
Whose worth’s unknown, although his height be taken.

Love’s not Time’s fool, though rosy lips and cheeks
Within his bending sickle’s compass come;
Love alters not with his brief hours and weeks,
But bears it out even to the edge of doom.

If this be error and upon me proved,
I never writ, nor no man ever loved.
.

SONNET 116

Tôi dám chắc không tâm đầu ý hợp
Cách ngăn lòng, thì đâu có tình yêu
Cứ đổi thay với dòng đời thay đổi
Hay rụng rơi diều đứt sợi dây diều

Không! Tình yêu là ngọn đèn hàng hải
Soi trong đêm giông bão chẳng lu mờ
Là Bắc Đẩu cho tàu bè nhìn thấy
Giữa mênh mông biển lơn biết tìm bờ

Yêu đâu chỉ lúc môi hồng má thắm
Rồi lụn tàn khi tuổi đã già nua
Yêu chẳng thể đếm bằng ngày bằng tháng
Mà trường tồn đến tận kiếp nào kia

Nếu chứng minh những điều đó là sai
Tôi ngừng viết, không ai biết yêu ai.

7/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 

Tình Yêu Và Tình Bạn

Tác giả: Trần Đức Phổ & Emily Brontë

1. DẪN

Emily Brontë là một nhà văn, nhà thơ người Anh thế kỷ 19. Bà là tác giả cuốn tiểu thuyế nổi tiếng Wuthering Heights (Đồi Gió Hú). Giống như nhiều văn thi sĩ lừng danh khác, bà chỉ được văn học sử nhắc đến sau khi chết. Ngoài cuốn tiểu thuyết thành danh kể trên, bà còn làm một số thơ. Thi phẩm mà tôi phỏng dịch dưới đây: “Love And Friendship” của Emily Brontë, được nhiều người chú ý. Trong bài thơ đó, bà đã đề cao tình bạn hơn tình yêu. Xin lưu ý rằng, tình yêu bà nói đến ở đây là thứ tình yêu lãng mạn, sớm nở tối tàn, khác với thứ tình yêu bền vững được gắn kết bởi tình bạn và tình yêu sâu đậm trong cuộc đời vợ chồng.
.

2. THƠ

LOVE AND FRIENDSHIP
By Emily Brontë

Love is like the wild rose-briar,
Friendship like the holly-tree—
The holly is dark when the rose-briar blooms
But which will bloom most constantly?

The wild rose-briar is sweet in spring,
Its summer blossoms scent the air;
Yet wait till winter comes again
And who will call the wild-briar fair?

Then scorn the silly rose-wreath now
And deck thee with the holly’s sheen,
That when December blights thy brow
He still may leave thy garland green.
.
2. PHỎNG DỊCH

TÌNH YÊU VÀ TÌNH BẠN

Tình yêu giống như bụi hoa hồng dại
Tình tri âm như cây lớn trong vườn
Hồng nở hoa còn cây chỉ có lá
Nhưng hoa nào tươi mãi với thời gian?

Hồng ngọt ngào khi mùa xuân ngự trị
Hương thơm lừng hoa nở lúc hạ sang
Nhưng mùa đông rồi sẽ quay trở lại
Ai còn yêu những cánh rã hoa tàn?

Hãy khinh rẻ loài hoa hồng ngớ ngẩn
Và điểm trang cho cây tốt lung linh
Tháng mười hai dù có làm buồn chán
Cây vẫn còn tán lá kết màu xanh.

6/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 
 

 

Sonnet 130

Tác giả: Trần Đức Phổ & William Shakespeare

1. DẪN

Bản Sonnet thứ 130 của đại thi hào William Shakespeare là một bài thơ tình thuộc dạng hiếm có trong văn chương thế giới. Thông thường, người ta hay ca tụng người yêu của mình bằng cách mô tả những nét kiều mỵ của nàng, nhưng ở đây thi sĩ lại làm điều ngược lại. Mọi mặt của cô nàng đều kém xa các thứ khác trên đời. Đôi mắt nàng không sáng rực rỡ bằng mặt trời, môi nàng không đỏ bằng san hô, da nàng không trắng như tuyết… Tác giả không theo thói khuôn sáo tâng bốc mỹ nhân như cách thông thường của thơ ca lãng mạn, mà đã dùng phép đảo ngược (inverted.) Thực tế thì cô ấy rất xinh đẹp, nhưng thi sĩ chỉ muốn người đọc cảm nhận nàng như một người bình thương chứ không như là tiên nữ ở cõi phàm.
.
2. THƠ

SONNET 130
By William Shakespeare (1564-1616)

My mistress' eyes are nothing like the sun;
Coral is far more red than her lips' red;
If snow be white, why then her breasts are dun;
If hairs be wires, black wires grow on her head.

I have seen roses damasked, red and white,
But no such roses see I in her cheeks;
And in some perfumes is there more delight
Than in the breath that from my mistress reeks.

I love to hear her speak, yet well I know
That music hath a far more pleasing sound;
I grant I never saw a goddess go;
My mistress when she walks treads on the ground.

And yet, by heaven, I think my love as rare
As any she belied with false compare.
.

3. PHỎNG DỊCH

SONNET 130

Mắt nàng không là vầng dương sáng
Môi nàng không đỏ mọng san hô
Nếu tuyết trắng thì ngực nàng xam xám
Tóc của nàng là những sợi đen thô

Tôi đã thấy hoa hồng trắng đỏ
Chẳng thấy đâu đôi má nàng hồng
Nhiều mùi hương thơm tho, quyến rũ
Tuyệt vời hơn hơi thở của nàng

Tôi thích nghe thanh âm nàng nói
Dù kém xa nhạc khúc du dương
Tôi thú nhận chưa bao giờ thấy
Dáng nàng đi vũ điệu nghê thường

Trời làm chứng, nàng là hiếm có
Với bất kỳ nhẫm lẫn sánh so.

30/5/2023
Trần Đức Phổ 
 

 

Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2023

Nhìn Thẳng Vào

Tác giả: Trần Đức Phổ & Edgar Albert Guest

SEE IT THROUGH
By Edgar Albert Guest (1881 – 1959)

When you're up against a trouble,
Meet it squarely, face to face;
Lift your chin and set your shoulders,
Plant your feet and take a brace.
When it's vain to try to dodge it,
Do the best that you can do;
You may fail, but you may conquer,
See it through!

Black may be the clouds about you
And your future may seem grim,
But don't let your nerve desert you;
Keep yourself in fighting trim.
If the worst is bound to happen,
Spite of all that you can do,
Running from it will not save you,
See it through!

Even hope may seem but futile,
When with troubles you're beset,
But remember you are facing
Just what other men have met.
You may fail, but fall still fighting;
Don't give up, whate'er you do;
Eyes front, head high to the finish.
See it through!
.

NHÌN THẲNG VÀO

Lúc bạn gặp khó khăn, trở ngại
Hãy thẳng thừng đối diện vấn đề
Ngẩng cằm lên, ưỡn vai cho rộng
Xoạt đôi chân trụ vững như kiềng
Những công việc gian nan hết sức
Càng cố hơn, tận lực của mình
Hoặc thất bại, hoặc là chinh phục
Nhìn thẳng vào, và hãy tiến lên!

Dẫu mây đen bủa vây tứ phía
Và tương lai ảm đạm. mịt mờ
Tinh thần bạn cũng đừng run sợ
Hãy dặn mình chiến đấu ngoan cường
Điều tồi tệ chẳng may ập đến,
Phó mặc cho tất cả rủi may,
Và tránh né cũng đâu yên ổn
Nhìn thẳng vào, và hãy tiến lên!

Dẫu hy vọng mong manh, ít ỏi
Lúc khó khăn bám riết lấy mình
Bạn hãy nhớ rằng đang gặp phải
Việc rất thường của kiếp nhân sinh
Lỡ thất bại, thua trong tranh đấu
Đừng bỏ ngang những chuyện đang làm
Mắt phía trước, đầu cao nhắm đích
Nhìn thẳng vào, và hãy tiến lên!

3/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 

Lúc Em Già

Tác giả: Trần Đức Phổ & William Butler Yeats

“When You Are Old,” Lúc Em Già là bài thơ tình thi sĩ William Butler Yeats đã dành cho một giai nhân mà ông thầm yêu trộm nhớ. Cách tỏ tình của tác giả lạ lùng, có một không hai. Mở đầu bài thơ ông không ngần ngại nói thẳng với người đẹp rằng khi nàng già tóc bạc, da mồi, mắt quầng thâm… thì hãy lấy sách của ông ra mà đọc, và mơ tưởng về thời thanh xuân hoa mộng. Thuở nàng còn xinh đẹp, có nhiều nam nhân theo đuổi, nhưng chỉ có mỗi chàng là yêu nàng chân tình, yêu cái đẹp tâm hồn nàng chứ không vì vẻ ngoài. Bởi vậy, cho dù thời gian có làm dung nhan nàng tàn tạ, chàng vẫn yêu nàng thà thiết. Nhưng nàng không đoái hoài chi đến chàng, để rồi chàng trở thành bóng chim, tăm cá. Thế nên khi về già nàng sẽ cô đơn và tiếc nuối.
.
WHEN YOU ARE OLD
By William Butler Yeats

When you are old and grey and full of sleep,
And nodding by the fire, take down this book,
And slowly read, and dream of the soft look
Your eyes had once, and of their shadows deep;

How many loved your moments of glad grace,
And loved your beauty with love false or true,
But one man loved the pilgrim soul in you,
And loved the sorrows of your changing face;

And bending down beside the glowing bars,
Murmur, a little sadly, how Love fled
And paced upon the mountains overhead
And hid his face amid a crowd of stars.
.

LÚC EM GIÀ

Lúc em già tóc bạc, và hay quên
Bên bếp lửa, lấy thơ anh ra đọc
Chầm chậm, rồi thả hồn mơ ước
Mắt trong xưa, nay cũng đã thâm quầng

Bao nhiêu người săn đón thuở thanh xuân
Bởi em đẹp, dù thật lòng hay giả ý
Chỉ một người yêu em như tri kỷ
Mãi còn yêu dẫu môi má phai hồng

Cúi đầu bên bếp lửả cháy bập bùng
Kêu khe khẽ, nỗi buồn tình yêu mất
Người xưa đã núi non nào phiêu bạt
Gương mặt chàng giấu kín giữa muôn sao.

2/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch 
 

 

Suy Tàn

Tác giả: Trần Đức Phổ & Percy Bysshe Shelley

Mọi thứ trên thế gian này rồi sẽ lụi tàn. Thành quách, tượng đài hoặc đế quốc hùng mạnh đến đâu rồi cũng sẽ sụp đổ tan tành dưới lốc xoáy thời gian. Nội dung bài thơ “Ozymandias” của thi hào Percy Bysshe Shelley đã nói lên điều này qua lời thuật chuyện của một du khách. Ông ta đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng điêu tàn nơi bưc tượng khổng lồ Ozymandias trong sa mạc ở Ai Cập. Ozymandias là tên gọi trong tiếng Hy Lạp của Ramesses II, một Pharaoh vĩ đại, đầy quyên lực, cai trị đất nước Ai Cập thế kỷ thứ 13 trước Công Nguyên, thường được biết với danh hiệu Đại Đế Ramesses (Ramesses the Great).
.

OZYMANDIAS
By Percy Bysshe Shelley

I met a traveller from an antique land,
Who said—“Two vast and trunkless legs of stone
Stand in the desert. . . . Near them, on the sand,
Half sunk a shattered visage lies, whose frown,
And wrinkled lip, and sneer of cold command,
Tell that its sculptor well those passions read
Which yet survive, stamped on these lifeless things,
The hand that mocked them, and the heart that fed;
And on the pedestal, these words appear:
My name is Ozymandias, King of Kings;
Look on my Works, ye Mighty, and despair!
Nothing beside remains. Round the decay
Of that colossal Wreck, boundless and bare
The lone and level sands stretch far away.”
.

SUY TÀN

Một du khách kể về vùng đất cổ:
“Không thấy mình, hai chân đá to cao
Đứng trên cát trong sa mạc… Gần đó
Nửa chìm gương mặt nứt, nét mày cau,
Môi nhăn, khinh thị, lạnh lùng ra lệnh
Nói lên rằng nhà điêu khắc tinh thâm
Tạc vào vật vô tri lưu dấu tích
Bàn tay giễu cợt, và lòng dụng tâm;
Ngay nơi bệ hiện rõ ràng dòng chữ:
‘Ta là Ozymandias, vua các vị vua
Hãy chiêm ngưỡng công trình ta vĩ đại!’
Không còn chi. Vòng hủy diệt chẳng chừa
Nào tượng đài, nào thành quách tan hoang
Từng lớp cát thấp cao trải ngút ngàn.”

1/6/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch