Thứ Năm, 11 tháng 8, 2022

Vui Buồn Nơi Trại Tị Nạn

 

Galang II gồm có bốn Zone. Các Zone A, B, C, dành cho người tị nạn đã ở trên đảo hơn một năm, hoặc người được nước thứ ba chấp nhận chờ ngày đi định cư. Riêng Zone D thuộc về phái đoàn Mỹ dành cho những công dân tương lai của họ Học Anh văn, hoặc đời sống văn hóa Mỹ. Những năm 1985 – 1986 có nhiều đợt đồng bào tị nạn từ Pulau Bidong, Malaysia chuyển qua học ‘khóa Mỹ’ tại đây. Vì thế lúc bấy giờ Galang rất đông vui, nhộn nhịp. Dường như cứ ít ngày là có đợt người mới đến. Lần nào cũng từ vài trăm người trở lên. Chợ búa, quán cà phê, rạp chiếu phim... mở ra vô số. Nơi nào cũng đông nghịt người. Các siêu thị tạp hóa của người In-đô thi đua bán hàng cạnh tranh với người Việt. Có thể nói Galang thuở đó đông vui, phồn thịnh hơn những thị trấn mà tôi đã từng đi qua ở Việt Nam.
 
Sau khi bị phái đoàn Úc “đá đèn” tôi không cam tâm. Vốn liếng tiếng Anh của tôi lúc này cũng đã kha khá nên quyết định viết một lá đơn khiếu nại gửi lên đại diện Cao ủy ở Galang. Trong đơn, tôi trình bày mong muốn tìm hiểu vì sao tôi vị từ chối mà không có lý do. Một tuần sau, tôi được mời lên. Tiếp tôi là ông George chánh văn phòng cao ủy tị nạn Galang lúc bấy giờ. Sau thủ tục chào hỏi, ông ấy bảo tôi không có giấy sponsor từ Úc. Và tai hại hơn người tôi khái là bác đã không công nhận tôi. Thế nên tôi bị phái đoàn Úc bác đơn không cho gặp. Ông ta khuyên tôi nên nạp đơn xin định cư với một nước khác, đừng dại dột chờ đợi trong vô vọng. Tôi cảm ơn ông rồi ra về với một tinh thần phấn chấn và hy vọng mới.
 
Chiều hôm đó, tôi đem bán nốt chiếc đồng hồ đeo tay lấy tiền mua bia về nhậu. Đây là những đồng bạc cuối cùng của tôi. Trước khi xuống tàu, anh rể cho ba chỉ vàng, dặn trao một chỉ cho thằng cháu ảnh đã đến Galang trên hai năm mà chưa đi. Hai chỉ còn lại, tôi tiêu xài tiết kiệm từ đó đến nay. Bữa nhậu này là tiệc tựchúc mừng tôi vì đã tỉnh ngộ và quyết tâm bắt đầu lại từ đầu. 
 
Khoảng hai tháng sau phái đoàn Canada sang. May mắn đến với tôi khi lần đầu tôi nạp đơn đã được gọi lên phỏng vấn. Hôm ấy, tôi ăn mặc thật gọn gàng tinh tươm, và đến nơi phỏng vấn rất sớm. Bà trưởng phái đoàn Canada tiếp kiến tôi là một người nhã nhặn, vui vẻ. Sau lời chào buổi sáng, bà bảo tôi an vị. Câu đầu tiên bà hỏi là:
 
- Why did you leave Vietnam?
 
Câu này tôi đã học tủ nên không cần thông dịch, trả lời ngay:
- I left Vietnam because there was no freedom in Vietnam.
- What do you know about freedom?
- I think freedom means we can go everywhere or do anything accordingly to the laws of our country.
- what did you do in Vietnam?
- I was a weaver.
Bà nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi tiếp:
- Did you go to the Vietnamese People Army?
- Yes! But I escaped when we’ve moved into Cambodia.
- What’s year?
- It’s 1983
- How long were you in the army?
- It’s six months.
- What would you like to do when you come to Canada?
- I’d go looking for a job.
- What kind of job?
- It can be any general labour job.
Đến đây, bà dừng lại, ghi chép cái gì đó vào tập hồ sơ của tôi. Lat sau, bà ngước lên tươi cười, nói:

Congratulations! You passed.
- Thank you very much!
 
Bà đứng lên và đưa tay bắt tay tôi. Tôi mừng quá, vội vàng đứng dậy đưa cả hai tay đỡ lấy tay bà. Tôi cúi chào và bước ra khỏi văn phòng Cao ủy. Chưa bao giờ tôi thấy bầu trời Galang đẹp như hôm nay. Trên đường trở về barrack tôi không bước nữa mà nhảy như chim sáo.
 
Sau khi được phái đoàn Canada nhận, tôi xin chuyển về Galang II dạy để khỏi đi xa, đỡ vất vả và ít tốn thời gian. Ở Galang II, baracks là những dãy nhà sàn được ngăn chia thành mười phòng giống hệt nhau. Tầng trên dùng làm phòng ngủ và cất đồ đạt. Tầng dưới là bếp, bàn ăn, và sàn rửa chén bát. Phòng tôi ở gồm có bốn người. Tôi, Lê Thanh Kim, Nguyễn Văn Huệ, và thằng Hiệp. Nhưng thằng Hiệp có người quen ở Zone khác nên dọn về sống với họ. Kế phòng tôi bên phải là cặp vợ chồng người Bắc. Bên trái là gia đình hai chị em người miền Tây. Cô chị bụng mang dạ chửa, có chồng làm baracks trưởng. Cô em tuổi mười chín đôi mươi, có đôi mắt lá răm sắc lẽm. Phía đối diện là bốn anh em thủy thủ người Vũng Tàu, suốt mùa hè chỉ mặc trên người mỗi cái quần đùi không mặc áo. Anh nào anh nấy bắp thịt nổi lên cuồn cuộn. Người em út tên Nguyễn Văn Lỳ, thường hay sang phòng chúng tôi chơi. Anh ta và cô em miền Tây coi bộ rất tình thương mến thương. Họ luôn nói cười vui vẻ. Lâu ngày hình như hai anh chị phải lòng nhau. Ba người anh trai thấy vậy ngăn cản, vì Lỳ đã có vợ và con ở Việt Nam. Nhưng khi ngọn lửa tình yêu đã cháy bùng thì những lời khuyên can chỉ như là nước xao đầu vịt. Anh em bất hòa, Lỳ chuyển sang ở cùng với chúng tôi. Không lâu sau, vợ chồng anh người Bắc đi định cư Canada, Lỳ và cô gái kia chuyển vào căn phòng đó chung sống như vợ chồng.
 
Ở Galang đời sống tinh thần cũng không kém phần phong phú. Ngoài nhà thờ, chùa chiền, và thánh thất còn có Trung tâm thanh niên (Youth Centre) mỗi dịp xuân về Tết đến đều có tổ chức văn nghệ mừng xuân. Trên đảo còn có nguyệt san Tự Do ấn hành song ngữ. Tôi may mắn được tham gia góp bài và đọc bản thảo phần tiếng Việt một ấn bản trước khi rời đảo. Tập san lúc đó do anh Bùi Văn Phú làm chủ bút. Thầy Nguyễn Ngọc Bích chuyển ngữ. Họa sĩ Vị Ý vẽ minh họa. Lê Thanh Kim viết nhan đề. Khi ròi đảo tôi có mang số báo này đi. Nhưng sau nhiều lần dọn nhà tờ báo đã thất lạc. Chỉ còn nhớ được bài thơ của tôi.
 
Quê tôi
 
Quê tôi đó một làng duyên hải
Bờ cát dài nối tiếp bãi dương xanh
Ngoài khơi xa là biển rộng mênh mông
Từng đoàn thuyền sớm chiều lướt sóng
 
Dân quê tôi vốn yêu đời lao động
Cánh tay trần vật lộn với phong ba
Vồng ngực căng như một mảnh buồm già
Lộng gió lớn từ ngàn xa thổi lại
 
Đã từ lâu sống nhờ vào bờ bãi
Nên dân làng tha thiết mến quê hương
Nhưng giặc về gây tang tóc, đau thương
Sóng thổn thức đưa người thân biệt xứ
 
Giải khăn sô quấn quanh đầu thiếu phụ
Trẻ nhà ai thơ thẩn trước mộ cha
Tấm thân gầy vàng vọt, tuyết sương pha
Đời đã mất những tháng ngày vui cũ
 
Hàng dương biếc như gọi buồn, ủ rủ
Nhân nghĩa chừ vất vưởng xó rừng xa
Đau đớn sao mắt nhòa lệ mẹ già
Mòn mỏi đợi đứa con ngoài ngàn dặm
 
Quê tôi đó ai nghe chăng tiếng sấm
Trong đêm dài tăm tối gọi bình minh
Hỡi những người cùng đau khổ điêu linh!
 
Thế Sương – Nguyệt san Tự Do 9/1986
 
Bài này được gửi đăng lại trên Đặc san Liên Hội Người Việt Canada năm 1989 với bút hiệu Vũ Thế Sương. Đến năm 2017, tôi sửa lại hai khổ thơ cuối cho cập nhật rồi đăng lên mạng với bút hiệu Trần Đức Phổ.



Galang thuở ấy là nơi đông đảo đồng bào Việt Nam tứ xứ chạy nạn cộng sản quy tụ về. Hòn đảo này giống như một làng xã thu nhỏ của người Việt, gồm đủ các thành phầ xã hội sinh sống nên không tránh được sự phức tạp. Có rất nhiều người lương thiện, nhưng cũng có lắm kẻ bất lương. Có thể có cả những tay cộng sản nằm vùng, trá hình là thuyền nhân. Thành phần trộm cắp, đĩ điếm cũng không hề thiếu. Và dĩ nhiên đầy rẫy các tay anh chị đầy máu mặt.
 
Lúc tôi ở đảo đã từng nghe thấy mẩu chuyện ly kỳ, nhiều kịch tính như phim Hongkong về một vị hảo hán chuyên hành nghề phi pháp. Hùng Thẹo là một ông trùm tổ chức đánh bạc, cá độ và buôn bán rượu lậu trên đảo. Một lần bị bọn cảnh sát Nam Dương bắt vì hành vi phạm pháp. Bọn chúng vòi tiền anh không được nên cho anh ăn no đòn . Sau khi được tha về, vừa bình phục anh này đã tìm cách trả thù. Anh cho đàn em theo dói và tìm hiểu sinh hoạt của tụi cảnh sát trên đảo. Biết được một tên hạ sĩ quan cặp bồ với một cô gái Việt, tối nào hắn cũng từ đồn lái mô-tô vào Galang II. Sai khi theo dõi nhiều ngày, anh liền cho đàn em mai phục trong một cánh rừng ở đoạn đường vắng. Xẩm tối hôm đó như thường lệ, anh chàng hạ sĩ lái xe vào gặp người tình. Lúc qua đoạn đường rừng, bỗng thấy xuất hiện hai cô gái chận xe xin sửa giùm chiếc xe đạp bị tuộc xích. Anh kia dừng xe, loay hoay gắn sợi xích giúp hai cô. Bỗng đâu một cái bao tải vung lên trùm kín đầu anh ta. Chưa kịp phản ứng, hắn đã bị ba bốn anh thanh niên từ đâu ùa tới lôi vào trong rừng. Bọn chúng đập cho hắn một trận tơi bời, sau đó trốn biệt. Anh nọ bấy giờ mới hoàn hồn, lóp ngóp bò ra đường, quay trở về đồn. Suốt đêm đó và cả ngày hôm sau tụi cảnh sát Nam Dương lùng sục tất cả các Zone để tìm bắt cho được bọn Năm Thẹo. Nhóm này lẫn trốn vào trong rừng ven bờ biển. Đàn em giả dạng đi đánh ca tiếp tế lương thực cho ăn. Về sau không rõ như thế nào.
 
Cuộc sống ở trại tị nạn rất nghiệt ngã, nhất là đối với những người trẻ tuổi độc thân không có thân nhân ở nước ngoài để hộ trợ về mặt tinh thần cũng như vật chất. Do đó không ít người tuyệt vọng, nghĩ quẩn làm những điều dại dột. 
 
Ngay tại ngã rẽ con đường đi vào Zone D, chỗ cây cổ thụ, có một cái miếu nhỏ thờ Hai cô gái xấu số. Theo lời người trên đảo kể lại, ngôi miếu này có khá lâu. Câu chuyện của Hai cô thật bi thảm, lúc vượt biên bị hải tặc cưỡng bức. Lên đảo không có thân nhân ở nước ngoài, lại bị phái đoàn từ chối cho tái định cư nên phẫn uất tự vẫn tại nơi cành cây cổ thụ ấy. Đồng bào trên đảo rỉ tai nhau là ngôi miếu rất linh thiêng. Nhiều người đi ngang qua đây ban đêm đều tỏ ra kiêng dè, sợ hãi. Hai cô không có thân nhân, nhưng người dân đảo vì thương xót cảnh ngộ, và muốn cầu xin các cô phù hộ sớm được rời đảo nên đến thắp nhang cúng bái thường xuyên. Tôi theo đạo thờ cúng ông bà. Nhưng lên đảo, bạn bè rủ đi chùa, đi nhà thờ, hoặc đi thánh thất tôi đều không từ chối. Tôi cũng đã cùng bạn bè đến thắp hương ở Miếu Hai Cô.
 
Một câu chuyện khác cũng có nhiều người biết đến. Đó là chuyện hai anh em thủy thủ nhà kia nửa đêm đột nhập bến tàu. Họ tìm đúng chiếc tàu cá của họ, nổ máy chạy ra biển tìm đường hồi hương. Họ Chở người vượt biển bị bắt lên đảo. Trình độ văn hóa thấp kém, không có thân nhân nước ngoài; và vì nhớ vợ nhớ con nên họ làm liều. Họ tẩu thoát được vài tiếng đồng hồ thì bị hải quân Nam Dương bắt lại. hai anh em bị giam cầm trên đảo. Chiếc tàu bị tháo máy làm sắt vụn.
 
Chuyện không như ý ở đảo chắc còn rất nhiều người gặp phải. Riêng tôi vì chơi bạn không chọn lựa nên cũng vướng vào cảnh lao tù. Như đã nói ở phần trước, phòng tôi ở có ba người. Kim và tôi không có thân nhân nước ngoài nên chịu khó học Anh văn và làm thiện nguyện để mong sớm được tái định cư. Huệ có một người anh trai ở Mỹ bảo lãnh, nhưng giấy tờ trục trặc sao đó mà hơn hai năm vẫn chưa được đi. Thỉnh thoảng anh trai nó gửi sang một ít tiền để nó tiêu xài.
 
Một buổi chiều, nấu cơm xong không có gì ăn, thấy vậy, thằng Huệ mới rủ thằng Kim và thằng Lỳ ra siêu thị của bọn Nam Dương nua thịt hộp. Tôi ở nhà ngồi không một mình cũng buồn nên đứng dậy cùng đi với bọn chúng. Thằng Huệ khuyên tôi:
 
- Anh Thư ở nhà đi, đi làm chi cho đông!
Thằng Kim nói xen vào:
- Đông vui mà!
Thế là tôi cùng đi với bọn chúng ra một siêu thị cạnh con đường trục của đảo. Tại cửa siêu thị, thằng Huệ bảo tôi:
- Thôi, anh Thư cứ đứng ngoài này, để bọn tui vào trong.
 
Nghe lời hắn, tôi đứng lại ngoài cửa. Hai tay thọc túi quần, tôi đưa mắt nhìn con đường rải nhựa ngoằn ngoèo trước mặt lúc hoàng hôn vắng người. Chừng mười phút sau, ba đứa trở ra, tay thằng Huệ xách một cái túi ni-lon, bên trong có hai hộp thịt. Ba đứa nói cười vui vẻ. Cả bọn kéo nhau ra về.
Tối hôm đó đang ngủ, nửa đêm bỗng có tiếng gõ cửa. Thằng Kim ngồi dậy mở cánh cửa gỗ. Tôi vẫn nằm trong mùng nhưng đã thức. Một vệt đằng pin quất vào mặt tôi. Có tiếng quât to:
 
- Tất cả ngồi dậy, và đi ra khỏi phòng!
- Các anh là...? – Thằng Kim lí nhí hỏi.
- Nhân viên phòng trật tự.
 
Tôi và thằng Kim bước xuống cầu thang gỗ. Tối nay không thấy có thằng Huệ ngủ ở nhà.
Hai người trên phòng cũng bước xuống theo, sau đó họ lên gõ cửa phòng thằng Lỳ.
Bốn gã nhân viên dẫn ba chúng tôi về phòng trật tự. Mỗi đứa tôi bị đưa vào một căn phòng tối om. Sau khi tôi bước vào phòng, một anh nhân viên liền đứng chặn ngay cửa. Một chốc có thêm hai nhân viên khác đến. Họ mang theo một cây đèn hột vịt, một cái bàn con, mấy tờ giấy và một cây bút. Đặt cái bàn xuống cạnh cửa ra vào, để giấy bút và cái đèn trên mặt bàn rồi họ bước ra ngoài. Anh nhân viên đứng chặn cửa xách đến cho tôi chiếc ghế đẩu và bảo:
 
- Ngồi xuống đó viết bản tự khai đi!
 
Tôi thật sự chẳng hiểu điều gì đã xảy ra nên nhìn anh ta hỏi lại:
- Tôi phải khai điều gì bây giờ?
- Chiều nay mày đã làm gì thì khai nấy!
 
Tôi không biết anh ta nói về vấn đề gì, nên không cầm bút lên. Chợt tôi nghe phòng bên cạnh tiếng thằng Lỳ khóc hu hu. Tôi giật mình, nghĩ bụng chắc là thằng Lỳ bị đánh hội đồng rồi! Cơ thể nó khỏe và rắn chắc thế mà chịu đòn không nổi huống hồ là tôi! Tôi cầm lấy cây bút. Tôi viết in hoa ba chữ “Bản tự Khai”. Phía dưới ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh, và địa chỉ barrack. Viết xong những thứ đó, tôi không biết viết thứ gì thêm nữa. Anh kía nhìn tôi tức giận hét:
 
- Mày có chịu viết không?
Tôi đáp:
- Tôi không biết viết... – Tôi chưa nói hết câu, thằng kia đã ra đòn đấm tới tấp vào người tôi. Tôi choáng váng, bật ngửa người ra sau suýt té, miệng la lên oai oái. Tên nhân viên ngừng lại trừng mắt nhìn tôi:
- Khôn hồn thì khai ra!
Lúc đó đầu óc tôi nghĩ: Ước gì mình có công phu như Lý Tiểu Long hoặc Jacky Chan để đập cho thằng này một trận. Buồn thay, đó chỉ là ao ước! Biết mình thân yếu thế cô, tôi nói với nó như van xin:
 
- Thật tình em không biết gì cả. Anh cứ nói đại khái chuyện gì đã xảy ra để em theo đó mà viết.
Thằng kia còn đang lưỡng lự thì hai thằng khác đến. Tôi nghe chúng nói nhỏ với nhau thằng Lỳ đã khai rồi. Một thằng đến gần, nhìn vào tờ giấy của tôi, rồi nói:
 
- Chiều qua, mấy đứa mày đến siêu thị ăn cắp đồ như thế nào thằng Huệ đã khai hết rồi. Mày đứng canh cửa còn mấy thằng kia vào lấy phải không?
 
Thì ra là thế! Thật tình tôi không phải được thằng Huệ phân công gác cửa, cũng không biết bọn nó đi ăn cắp ở siêu thị. Tôi sắp được đi định cư Canada đâu có ngu gì làm chuyện xấu xa như thế,? Ngộ nhỡ bị báo cáo lên Cao ủy thì sao? Nhưng cãi lại thì ăn no đòn. Đến nước này tôi chỉ còn cách dựa theo lời nói của thằng kia và thêm mắm thêm muối vào cho xong “khẩu cung”. Tôi viết một mạch y chang lời mớm cung. Xong, đề ngày tháng và ký tên. Bọn chúng cầm xem có vẻ vừa ý. Sau đó, hai tên nhân viên dẫn tôi tới một dãy phòng có song sắt và tống tôi vào căn ngoài cũng. Chúng khóa cửa lại rồi bỏ đi. Từ phòng bên cạnh thằng Lỳ đứng bên song sắt hỏi tôi:
 
- Anh khai sao?
Tôi gắt:
- Tôi có biết gì đâu mà khai!
- Rồi nó có đánh anh không?
- Có!
Thằng Lỳ cười hì hì, khuyên tôi:
- Lần sau, chúng kêu anh lên bảo làm gì thì cứ làm theo cho khỏi bị đòn!
 
 

 
 
Một giờ chiều hôm sau, một nhân viên trật tự xuống mở cửa song sắt dẫn tôi lên lên văn phòng làm việc của BanTrật tự Galang II. Căn phòng không có ai cả. Anh ta chỉ cho tôi chiếc ghế trước một cái bàn làm việc bỏ trống. Trên bàn có mấy cuốn sách được xếp chồng lên nhau ngay ngắn. Tôi ngồi một lát thì có một người đàn ông từ cửa bước vào, đi vòng qua tôi, đến ngồi phía bên kia chiếc bàn. Dáng người ông hơi thấp, gầy. Mình mặc chiếc áo sơ mi màu đen, cộc tay. Nước da ngăm ngăm. Khuôn mặt xương, lộ rõ cặp lưỡng quyền. Trông ông ta có vẻ rắn rỏi, cương nghị. Đôi mẳ sáng quắc dễ làm người khác run sợ khi nhìn vào. Chưa ngồi xuống cái ghế dựa ông đã nói to:
 
- Bây giờ không còn là cái thời cho nhà văn, nhà thơ vào sống trong tù để lấy tài liệu sáng tác như Duyên Anh đâu nhé!
 
Nghe ông ta nói, tôi muốn phì cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của ông cho rằng bọn chúng tôi vào tù để tìm cảm hứng về du đảng như tác giả Điệu Ru Nước Mắt. Nhưng nhìn vẻ nghiêm nghị của ông, tôi không dám cười! Ông ta ngồi xuống ghế rồi nói tiếp:
 
- Nghe họa sĩ Vị Ý nói anh cũng biết làm thơ, sao lại đi làm cái việc đáng xấu hổ kia?
Tôi hơi nóng mặt, đáp:
- Thưa chú, tôi bị oan!
Ông ta hừ một tiếng, nhìn xoáy vào tôi:
- Anh viết bản khai cung rành rành còn oan nỗi gì?
- Thưa chú... cháu viết theo lời các anh nhân viên trật tự nói lại; chứ cháu không biết gì về chuyện thằng Huệ ăn cắp mấy hộp thịt.
Người đàn ông dương như bực mình vỗ vỗ lên mặt bàn:
- Anh bảo anh bị ép cung à?
- Dạ! Cháu sợ bị đánh!
- Vậy anh có muốn xé tờ khẩu cung của mình không?
 
Mấy ý nghĩ lướt nhanh qua đầu tôi. Có phải ông này lừa mình xé tờ khai để buộc thêm tội không? Nhưng nếu mình xé nó đi sẽ không còn chứng cứ buộc tội? Lưỡng lự một chút tôi đáp:
 
- Cháu đâu dám xé khẩu cung trước mặt chú!
- A! ... Anh này ngộ nhở! Bảo anh nhận tội, anh nói bị ép cung. Bảo anh xé tờ khai anh không xé. Tôi phải xử anh như thế nào đây?
Chộp ngay cơ hội để minh oan, tôi nói liền:
- Chú cho cháu đối chất với thằng Huệ và những đứa khác!
 
Người đàn ông ngửa lưng ra chiếc ghế dựa, nhìn tôi chăm chú một lát rồi nói.
- Tôi là trưởng phòng trật tự Galang II, đã từng làm Thiếu tá cảnh sát Đô thành nên ai oan ai không tôi nhìn qua đã biết. Vụ này tôi xử, nếu đưa các anh cho tụi Nam Dương, chắc chắn các anh bị no đòn.
- Dạ... mọi chuyện nhờ chú giúp cho.
- Thôi! Khỏi đối chất đối chiết gì hết! Anh cứ về nhà. Có gì tôi sẽ gọi lên nói chuyện sau.
- Cháu cảm ơn chú!
 
Tôi bước ra khỏi căn phòng ngột ngạt kia. Ánh nắng chiều vàng ong lấp loáng trên con đường trải nhựa. Tôi nghũ bụng phải cảm ơn họa sĩ Vị Ý, chắc có lẽ chú ấy đã đến nói chuyện với ông trưởng phòng nên tôi mới được ra tù sớm thế. Một ngày tù nghìn thu ở ngoài. Cái cảm giác tự do lâng lâng trong tôi.
Về đến barrack, tôi gặp một người đàn ông hàng xóm. Ông ta hỏi tôi:
- Anh ở Phòng trật tự về à?
- Sao chú biết?
- Sáng nay loa phóng thanh réo tên mấy đứa bây om sòm!
- Họ nói gì?
- Ăn cắp vặt ở siêu thị.
Tôi xấu hổ muốn độn thổ.
- Có bị đánh không?
Tôi gật gật đầu.
- Anh nên làm đơn khiếu nại lên Cao ủy.
- Thôi chú ơi, thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện. Hơn nữa tôi cũng sắp đi định cư rồi!
Ông ta không nói gì thêm, khoát tay, bỏ đi.
 
Gần tối thì thằng Kim và thằng Lỳ cũng về đến. Còn thằng Huệ hai hôm sau mới được thả ra. Gặp tôi, nó cười cười xin lỗi. Tôi nói nửa đùa nửa thật:
 
- Nhờ Huệ tôi mới nếm được mùi vị ở tù!
 
***
 
Một tháng sau, tôi có tên trong danh sách ròi đảo đi định cư Canada. Bọn tôi không có tiền để mở party Nhưng ngày tôi lên đường, Kim, Huệ, Lỳ và cô bạn gái của y cái bụng giờ đã nhô lên khá cao cũng ra cầu tàu đưa tiễn. Lúc tàu ròi bến, tôi còn nghe tiếng chúng nó hét to:
 
- Đừng quên Galang!
- Đừng quên bọn mình!
 
Tôi không đáp lời, nhưng trong bụng thầm nghĩ: Làm sao quên được vùng đất đã cho mình chốn dung thân đầu tiên khi rời xa tổ quốc? Làm sao quên được cái cầu tàu đã đón đưa bao nhiêu bước chân người Việt Nam? Hoặc những dãy barrack vách gỗ mái tôn là tổ ấm cho bao nhiêu lớp người tị nạn? Rồi còn những chiếc dù đen, vật bất ly thân che nắng che mưa trên tay khách bộ hành ở đảo nữa chứ?
 
Làm sao quên được những người bạn chỉ sống chung một thời gian ngắn nhưng đã cùng chia ngọt, xẻ bùi, hoạn nạn có nhau? Làm sao quên được phút giây thất vọng, nản lòng khi bị phái đoàn từ chối? Hoặc niềm vui vỡ òa lúc nghe có tên gọi định cư trên loa phóng thanh?
 
Tôi sẽ mãi mãi nhớ về Galang!
Tôi sẽ luôn luôn nghĩ về các bạn!
 
Chiếc ca-no rẽ nước chạy phăng phăng. Cách đây mười lăm tháng, tôi được đưa đến Galang. Khi đó bị nhốt trong hầm một chiếc xà lan đông đúc. Vài trăm người mặt mũi phờ phạt, ủ ê, dưới ánh sáng mờ mờ từ những ngọn đèn vàng vọt. Hôm nay tôi rời đảo trên một chiếc ca-no xinh xắn cùng với hơn chục con người mặt mày hớn hở, tươi cười, trong một buổi sơm mai tràn ngập nắng hồng. Tôi quay lại nhìn Galang lần cuối. Chỉ còn thấy những dãy núi xanh uốn lượn như trường thành trên mặt biển bao la.
 
Trần Đức Phổ
 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.