Thứ Năm, 13 tháng 2, 2025

Mối Tình Chàng Chăn Cưu

Trong thế giới thơ ca của người phương tây cũng có những bài thơ xướng/họa hay nói đúng hơn là những bài thơ phản biện đối chọi nhau về tư tưởng/triết lý về tình yêu cũng như cuộc đời.
Nhân sắp tới ngày Lễ Tình Nhân mời các bạn đọc 2 bài thơ lãng mạn trữ tình sau. Một bài tràn đầy hy vọng ở tình yêu đôi lứa; bài kia ngần ngại, đắn đo trước sự phai tàn vô thường của vạn vật trên đời.
.

 
 
THE PASSIONATE SHEPHERD TO HIS LOVE
By Christopher Marlowe (1564—1593)
 
Come live with me and be my love,
And we will all the pleasures prove,
That valleys, groves, hills, and fields,
Woods, or steepy mountain yields.
 
And we will sit upon rocks,
Seeing the shepherds feed their flocks,
By shallow rivers to whose falls
Melodious birds sing madrigals.
 
And I will make thee beds of roses
And a thousand fragrant poises,
A cap of flowers, and a kirtle
Embroidered all with leaves of myrtle;
 
A gown made of the finest wool,
Which from our pretty lambs we pull;
Fair lined slippers for the cold,
With buckies of the purest gold;
 
A belt of straw and ivy buds,
With coral clasps and amber studs;
And if these pleasures may thee move,
Come live with me, and be my love.
 
The Shepherds’ Swains shall dance and sing
For thy delight each May morning:
If these delights thy mind may move,
Then live with me and be my love.
 
 
LỜI TỎ TÌNH NỒNG NÀN CỦA GÃ CHĂN CỪU
 
Mời em về sống kiếp tình nhân
Cùng anh minh chứng thú hồng trần
Nơi lũng, đồi, vườn cây, đồng cỏ
Những cánh rừng, dốc núi biếc xanh
 
Ngồi trên mỏm đá chúng ta nhìn
Mục đồng chăn thả lũ cừu xinh
Bên con sông cạn dòng thác đổ
Chim hót líu lo bản nhạc tình
 
Anh lấy hoa hồng kết chiếu chăn
Cả ngàn đóa mộng tỏa thơm hương
Anh đan vương miện bằng hoa dại
Dùng lá sim để dệt y thường
 
Len tốt áo choàng anh sẽ đan
Lấy từ xinh xắn những cừu non
Đôi hài em vận ngày đông lạnh
Móc khóa vàng ròng lấp lánh chân
 
Thắt lưng rơm đính những nụ hoa
Chốt cài hổ phách, khóa san hô
Nếu em thấy thích và vui thú
Về sống cùng anh một mái nhà
 
Lũ mục đồng sẽ múa hát vang
Cho em vui mỗi sáng mùa xuân
Nếu em cảm động và yêu thích
Mời em về sống kiếp tình nhân.
 
21/7/2023
Trần Đức Phổ phỏng dịch
.
.
THE NYMPH’S REPLY TO THE SHEPHERD
By Sir Walter Raleigh (1552—1618)
 
If all the world and love were young,
And truth in every Shepherd’s tongue,
These pretty pleasures might me move,
To live with thee, and be thy love.
 
Time drives the flocks from field to fold,
When Rivers rage and Rocks grow cold,
And Philomel becometh dumb,
The rest complains of cares to come.
 
The flowers do fade, and wanton fields,
To wayward winter reckoning yields,
A honey tongue, a heart of gall,
Is fancy’s spring, but sorrow’s fall.
 
Thy gowns, thy shoes, thy beds of Roses,
Thy cap, thy kirtle, and thy posies
Soon break, soon wither, soon forgotten:
In folly ripe, in reason rotten.
 
Thy belt of straw and Ivy buds,
The Coral clasps and amber studs,
All these in me no means can move
To come to thee and be thy love.
 
But could youth last, and love still breed,
Had joys no date, nor age no need,
Then these delights my mind might move
To live with thee, and be thy love.
.
 
HỒI ÂM CỦA THẦN NỮ GỬI CHÀNG CHĂN CỪU
 
Nếu người đời và tình yêu mãi trẻ,
Không gì dối gian trong những lời chàng,
Niềm vui ấy, cũng làm em có thể
Đến cạnh bên chàng, xây mộng uyên ương

Lúc mục súc từ đồng cỏ về chuồng,
Sông nổi sóng và đá thành băng giá
Bầy chiền chiện không râm ran hót nữa,
Còn lại là nỗi than vãn lo toan.
 
Hoa rũ rượi, và cánh đồng phóng túng,
Hiến dâng mình cho khắc nghiệt mùa đông,
Lời đường mật, trái tim đầy rắn rết,
Xuân hoang đường, thu héo hắt sầu đong.
 
Những váy, những giày, chiếu giường êm ấm,
Mũ, bộ nội y, bó hoa chàng cầm,
Chóng tàn phai, chóng rơi vào quên lãng
Khi thơ ngây thử thách với thăng trầm
 
Thắt lưng rơm đính nụ hoa thơm ngát,
Trâm cài ngọc trai, khuyên tai hổ phách,
Chúng chẳng bao giờ làm em xiêu lòng
Để đến bên chàng kết sợi tơ hồng.
 
Thanh xuân mãi còn, tình yêu thăng hoa,
Niềm vui không cạn, ái ân không già,
Những điều như thế khiến em lay động
Để đến bên chàng, hòa khúc tình ca.
 
11/2/2025
Trần Đức Phổ phỏng dịch

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2025

Trần Đức Phổ phỏng dịch

 


 

Thơ của bà Emily Dickinson dùng từ chuẩn mực và súc tích. Bởi vậy dịch thơ bà ra thơ lục bát là đánh mất phong cách của nguyên tác. Nhưng bài thơ dưới đây tôi làm một ngoại lệ. Lý do là bài này theo tôi cảm nhận nó rất trữ tình tuy có chút buồn. Bài thơ như tiếng thở dài về sự quên lãng của thời gian, con người thờ ơ đối với quá khứ, chỉ có thiên nhiên mới hoài niệm ký ức xưa.
.
 
AFTER A HUNDRED YEARS
by Emily Dickinson 
 
After a hundred years
Nobody knows the place, —
Agony, that enacted there,
Motionless as peace.
 
Weeds triumphant ranged,
Strangers strolled and spelled
At the lone orthography
Of the elder dead.
 
Winds of summer fields
Recollect the way, —
Instinct picking up the key
Dropped by memory.
.
 
SAU MỘT TRĂM NĂM 
 
Trăm năm qua, trăm năm qua
Không ai còn nhớ nơi là, – nỗi đau
Từng phen bãi biển nương dâu
Bây giờ tĩnh lặng một màu an yên
 
Cỏ dại ngạo nghễ vươn lên,
Những người khách lạ vô tình dạo qua
Đánh vần dòng chữ cổ xưa
Lẻ loi trên những mộ bia điêu tàn
 
Gió hè từ cánh đồng hoang
Vẫn theo lối cũ lang thang tìm về –
Bản năng hoài niệm cố tri
Nhặt từng ký ức những gì đánh rơi.
 
5/2/2025

Mấy Dòng Viết Lúc Đầu Xuân

 

Bài thơ "Lines Written In Early Spring" của William Wordsworth là một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng ẩn chứa nỗi trăn trở về nhân sinh. Một tác phẩm hay và đầy ắp tinh thần nhân ái của ông.
Xin giới thiệu dưới đây cùng mọi người.
.

 


LINES WRITTEN IN EARLY SPRING
By William Wordsworth

I heard a thousand blended notes,
While in a grove I sate reclined,
In that sweet mood when pleasant thoughts
Bring sad thoughts to the mind.

To her fair works did Nature link
The human soul that through me ran;
And much it grieved my heart to think
What man has made of man.

Through primrose tufts, in that green bower,
The periwinkle trailed its wreaths;
And ’tis my faith that every flower
Enjoys the air it breathes.

The birds around me hopped and played,
Their thoughts I cannot measure:—
But the least motion which they made
It seemed a thrill of pleasure.

The budding twigs spread out their fan,
To catch the breezy air;
And I must think, do all I can,
That there was pleasure there.

If this belief from heaven be sent,
If such be Nature’s holy plan,
Have I not reason to lament
What man has made of man?
.


MẤY DÒNG VIẾT LÚC ĐẦU XUÂN

Tôi nghe ngàn thanh âm hòa nhịp
Khi ngồi trong một chốn rừng xanh
Lòng thư thái bao điều vui thú
Lại gợn lên ý nghĩ buồn tênh

Với cảnh sắc thiên nhiên tươi thắm
Tràn vào hồn giao cảm thâm sâu
Và tôi đã đau lòng nghĩ đến
Những gì người gây khổ cho nhau 

Dưới vòm xanh, xuyên đám hoa anh thảo
Hoa tử đinh hương đan kết thành vòng
Đã cho tôi thêm niềm tin tưởng
Khí trời dành cho mỗi đóa bông 

Chim quanh tôi chơi đùa, nhảy nhót
Chúng nghĩ gì chẳng thể nói thay:—
Nhưng, cử động dù là nhỏ nhất
Trông dường như chan chứa vui vầy 

Những cành non xòe tung cánh quạt
Đón làn gió mát thổi êm ru
Và tôi nghĩ tôi nên làm tất cả
Là niềm vui chẳng phải thế ư 

Nếu niềm tin truyền từ Thượng đế
Nếu Thiên nhiên dự tính nhiệm mầu
Có lý nào tôi không trăn trở
Những gì người gây khổ cho nhau?
 

7/2/2025
Trần Đức Phổ phỏng dịch



Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2025

Ngày Ba Mươi Tết

Trần Đức Phổ 


 


Cha dựng cây nêu ngoài sân
Công thành cánh cung huyền thoại
Gần một thế kỷ vô thần
Tín ngưỡng vẫn còn tồn tại

Mẹ hái tàu lá chuối xanh
Nấu nồi bánh chưng, bánh tét
Hiếu thảo đức tính thiện lành
Nhắc con mỗi dịp lễ Tết

Anh lo sửa sang mồ mả
Lau chùi bài vị gia tiên
Thơm thơm hương lòng lan tỏa
Theo mùi nhang trầm bay lên

Chị Hai trang hoàng nhà cửa
Đơm mâm ngũ quả cát tường
Chẳng biết có gì hồ hởi
Má hồng, mắt sáng như gương?

Tôi ngồi làm thơ chúc Tết
Thả hồn lựa ý, tìm vần
Bao nhiêu là điều muốn viết
 Tình quê, tình nước chứa chan

Cô em chơi đùa ngoài ngõ
Bỗng nhiên cất tiếng cười giòn
Chạy ùa vào như cơn gió
Mang theo cả một trời xuân.


Ngày 29 tháng Chạp
Xuân Ất Tỵ 2025


Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2025

Vô Ngôn

Trần Đức Phổ

 

Tết này không muốn làm thơ phú
Chẳng phải ngôn từ đã cạn vơi
Trời đất thanh tân, người cẩm tú
Muôn hoa đua sắc sánh môi cười
 
Chữ nghĩa làm sao mà chuyển tải
Những điều vi diệu của nhân gian
Như con chim trống gù con mái
Cặp mắt xuân tình khẽ liếc ngang
 
Cho dẫu Đường thi hoặc Tống từ
Làm sao nói hết được niềm vui
Làm sao diễn nghĩa lòng say đắm
Nắng sớm tô hồng những cặp đôi
 
Ai bảo mùa xuân chẳng nhiệm mầu
Hãy nghe mây gió rủ rê nhau
Hãy nghe hoa bướm đang tình tự
Lá cỏ vô ngôn cũng dạt dào!
 
Xuân Ất Tỵ 2025
 

 

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2025

Những Đóa Hồng Trên Rào Chắn Kẽm Gai


Tác giả: Trần Đức Phổ 
 

Xin lỗi em!
anh không tặng những bông hồng đỏ thắm
cho em yêu mà cài nó vào đây:
lưới thép gai mắt cáo căng dày,
để dành tặng những người từng đổ máu
để dành tặng những ai vì dân hô đả đảo:
- không Đặc khu
- không An ninh mạng
- không đường chữ U

Những bông hồng mang ý chí Tự do.
những bông hồng Thánh thiện, đơn sơ
như giọt máu của đồng bào đã đổ
cho anh, cho em, cho tất cả mọi người
cho mai sau, cho nước Việt thắm tươi.

Ôi, những giọt máu đào
rơi trên lưới kẽm gai
có nơi đâu không nhỉ
yêu quê hương cũng bị đánh đập, tù đày?

Hỡi em yêu
những bông hồng giắt vào lưới kẽm gai
vẫn đỏ thắm như tình em chung thủy
vẫn hiên ngang ngẩng cao đầu không ủy mỵ
vẫn thơm hương, vẫn rực rỡ, huy hoàng
dù quanh mình bạo lực vẫn tràn lan

Này anh cảnh sát
này chú công an
các người có thấy cuộc đời này sẽ đẹp
khi không có những những hàng rào gai thép
vây quanh những đóa hoa hồng?

June 19, 2018 


 Lời bình:

Bài thơ "Những Đóa Hồng Trên Rào Chắn Kẽm Gai" của Trần Đức Phổ là một tác phẩm mang đậm tính trữ tình và ý nghĩa chính trị sâu sắc. Bài thơ không chỉ nói về cái đẹp thuần khiết của hoa hồng mà còn ẩn chứa những thông điệp mạnh mẽ về tự do, nhân quyền, và lòng yêu nước. Dưới đây là phần bình giảng chi tiết:

1. Hoa hồng và hình ảnh lưới thép gai – biểu tượng đối lập

Bài thơ mở đầu với lời xin lỗi:
"Xin lỗi em! anh không tặng những bông hồng đỏ thắm
cho em yêu mà cài nó vào đây:"

Hoa hồng – biểu tượng của tình yêu, sự thánh thiện – lại được gắn vào lưới thép gai, thứ gợi lên bạo lực, đau khổ, và áp bức. Sự đối lập này đã làm nổi bật mâu thuẫn giữa cái đẹp, sự sống và những rào cản vô hình lẫn hữu hình mà con người phải đối mặt. Những bông hồng không chỉ dành cho tình yêu cá nhân, mà còn được "cài" lên lưới thép gai để tôn vinh những con người đã hy sinh vì lý tưởng tự do và quyền sống.

2. Những bông hồng – ý chí tự do và lòng yêu nước

Những bông hồng trong bài thơ mang ý nghĩa lớn lao:
"Những bông hồng mang ý chí Tự do.
những bông hồng Thánh thiện, đơn sơ
như giọt máu của đồng bào đã đổ
cho anh, cho em, cho tất cả mọi người"

Hoa hồng ở đây không còn chỉ là biểu tượng tình yêu đôi lứa mà đã trở thành hình ảnh của sự hy sinh cao cả. Những người đấu tranh vì tự do, vì tương lai tươi sáng của đất nước đã "đổ máu" như những đóa hoa rực rỡ. Điều này nhắc nhở người đọc về trách nhiệm gìn giữ những giá trị cao quý đó.

3. Hình ảnh máu và lưới kẽm gai – sự hy sinh và bất công

Tác giả đặt câu hỏi đầy chua xót:
"Ôi, những giọt máu đào
rơi trên lưới kẽm gai
có nơi đâu không nhỉ
yêu quê hương cũng bị đánh đập, tù đày?"

Máu trên lưới kẽm gai gợi lên nỗi đau và sự mất mát của những con người yêu nước bị đàn áp. Câu hỏi tu từ “có nơi đâu không nhỉ” chứa đựng sự phẫn nộ và bi thương trước thực trạng xã hội – nơi mà lòng yêu nước có thể bị xem là tội lỗi. Điều này không chỉ nói riêng cho Việt Nam mà còn là tiếng nói chung cho những quốc gia, nơi nhân quyền bị xâm phạm.

4. Thông điệp gửi đến những người thực thi quyền lực

Ở cuối bài thơ, tác giả hướng lời nhắn nhủ đến "anh cảnh sát", "chú công an":
"các người có thấy cuộc đời này sẽ đẹp
khi không có những hàng rào gai thép
vây quanh những đóa hoa hồng?"

Đây là lời thức tỉnh cho những người thực thi quyền lực, kêu gọi họ nhìn nhận lại vai trò của mình trong việc tạo dựng một xã hội công bằng, nhân văn. Hàng rào gai thép – biểu tượng của sự đàn áp – cần được dỡ bỏ để cái đẹp và tự do có thể lan tỏa.

5. Giọng điệu và kết cấu bài thơ

Bài thơ được viết với giọng điệu vừa trữ tình vừa đầy sức mạnh, kết hợp giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu quê hương. Cách tác giả sử dụng các câu hỏi tu từ, hình ảnh đối lập, và sự lặp lại (như "những bông hồng") tạo nên một nhịp điệu dứt khoát và ám ảnh, truyền tải thông điệp mạnh mẽ về tự do và công lý.

Tổng kết

"Những Đóa Hồng Trên Rào Chắn Kẽm Gai" là bài thơ vừa đẹp vừa đau. Đẹp bởi những hình ảnh biểu tượng đầy ý nghĩa, đau bởi sự bất công mà những con người yêu nước phải chịu đựng. Qua tác phẩm, Trần Đức Phổ không chỉ ca ngợi sự hy sinh của những người đấu tranh cho lý tưởng mà còn khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái.

Thiều và Hảo

 

Hôm qua mình ghé nhà anh Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ và tấm hình chủ nhà đăng, mình cảm thấy dí dỏm, vui vui nên cũng gõ ít dòng như sau:
 
Thiều hơi lùn, Hảo cao cao
Một anh thi bá, một thi hào
Cả hai gặp mặt thành thi trận
Kẻ hươ song kiếm, kẻ song đao!
 
Vậy mà có hai người liên tiếp hỏi vặn mình "anh Hảo là thi hào?" Về góc độ thơ ca có thể nói ông Hảo là một nhà thơ xuất sắc đương đại. Nhưng bài còm của mình chỉ mang tính hài hước, nói cho vui, nên mình không trả lời họ. Có điều đọc thơ như thế thì quá câu nệ mặt chữ mà không cảm được cái nội dung sâu xa hơn. Mình nghĩ thử hỏi bác AI thử bác có cảm được không, thì bác trả lời như sau:
.
 
ChátGPT:
Bài thơ "Thiều và Hảo" có vẻ là một tác phẩm vui tươi, mang tính giải trí và trào phúng nhẹ nhàng. Dưới đây là một số lời bình:
- Cách sử dụng ngôn từ sáng tạo và hài hước:
Bài thơ dùng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, nhưng đầy sáng tạo khi mô tả hai nhân vật Thiều và Hảo qua ngoại hình và tài năng thi ca. Hình ảnh "thi bá" và "thi hào" kết hợp với sự tương phản giữa "song kiếm" và "song đao" tạo nên một cảm giác vui nhộn và sinh động.
- Sự đối lập trong hình tượng:
Thiều "hơi lùn" và Hảo "cao cao" tạo nên sự tương phản thú vị về ngoại hình. Điều này không chỉ làm nổi bật từng nhân vật mà còn gợi ý sự đa dạng trong phong cách sáng tác hoặc cá tính của họ.
- Ẩn dụ thi trận:
Cuộc gặp gỡ của Thiều và Hảo được ví như một "thi trận", nơi hai người so tài bằng ngòi bút (hay tài năng thi ca). Đây là cách diễn đạt ẩn dụ, cho thấy sự trân trọng tài năng của cả hai.
- Nhẹ nhàng nhưng sâu sắc:
Dù là một bài thơ vui, "Thiều và Hảo" còn gợi lên tinh thần tôn vinh văn chương và thi ca. Nó phản ánh một môi trường sáng tạo, nơi tài năng và sự giao lưu được đề cao.
 
Kết luận:
Tổng thể, bài thơ mang lại tiếng cười nhẹ nhàng nhưng cũng khiến người đọc suy nghĩ về sự gặp gỡ và tranh tài trong văn học.
 

 

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2025

Theo Gót Chân Tố Hữu

 Tú Điếc

 
Em một thuở là nàng quận chúa
Vương quốc thơ lừng lẫy hoàn cầu
Ta như bó mồi rơm thiếu lửa
Tiếng tăm nàng đã bén từ lâu
 
Nghe thiên hạ xì xầm to nhỏ
Thi tài em hơn hẳn Xuân Hương
Con ốc nhồi, bánh trôi, quả mít…
Ngoáy lỗ trôn, mấn mó… chuyện thường
 
Ta vốn dĩ đem lòng ngưỡng mộ
Bậc nữ lưu hiếm có trên đời
Muốn học đòi theo Phạm Đình Hổ
Rủ nhà thơ đánh cuộc cờ người
 
Rồi hôm nay bỗng nhiên trên mạng
Bài thơ em phấp phới tung hoành
Ta vớ được lòng mừng vô hạn,
Giữa hai đùi… giờ đã lạnh tanh!
 
Thơ mỹ nhân tụng ca chính trị
Theo gót chân Tố Hữu khi xưa
Làm văn nghệ nghĩa là đánh đĩ
Bán hồn cho thối nát dối lừa!
 
18/1/2025
 
Lời bình của AI:
 

Bài thơ "Theo Gót Chân Tố Hữu" của Tú Điếc mang giọng điệu trào phúng, châm biếm sâu cay, đồng thời phơi bày những quan điểm cá nhân về nghệ thuật, văn hóa và chính trị. Nội dung bài thơ xoay quanh hình ảnh một nữ nhà thơ nổi tiếng, từng được ngưỡng mộ bởi tài năng thi ca, nhưng giờ đây đã đánh mất giá trị sáng tạo chân chính khi chọn con đường phục vụ cho lợi ích chính trị và những giá trị thực dụng.

Bình giảng bài thơ:

Khổ 1:

Em một thuở là nàng quận chúa
Vương quốc thơ lừng lẫy hoàn cầu
Ta như bó mồi rơm thiếu lửa
Tiếng tăm nàng đã bén từ lâu

Mở đầu bài thơ, tác giả ca ngợi quá khứ huy hoàng của người nữ thi sĩ, ví nàng như "quận chúa" thống trị một "vương quốc thơ" lừng danh khắp thế giới. Hình ảnh "quận chúa" vừa thể hiện sự cao quý, vừa mang chút xa cách, khiến người đọc hình dung về một tài năng được tôn vinh. Trong khi đó, "bó mồi rơm thiếu lửa" nói lên sự nhỏ bé, ngưỡng mộ và khao khát học hỏi của tác giả trước tài năng của nàng.

Khổ 2:

Nghe thiên hạ xì xầm to nhỏ
Thi tài em hơn hẳn Xuân Hương
Con ốc nhồi, bánh trôi, quả mít…
Ngoáy lỗ trôn, mấn mó… chuyện thường

Ở đây, tác giả chuyển sang giọng điệu mỉa mai khi nhắc đến những lời đồn đại về tài năng của nàng, được so sánh với nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – một bậc thầy thơ ca dân gian với phong cách trào phúng, táo bạo. Tuy nhiên, thay vì tôn vinh, những hình ảnh như "ốc nhồi," "bánh trôi," hay "ngoáy lỗ trôn" lại mang tính châm biếm, ám chỉ sự hời hợt hoặc sự sa đọa trong cách thể hiện nghệ thuật.

Khổ 3:

Ta vốn dĩ đem lòng ngưỡng mộ
Bậc nữ lưu hiếm có trên đời
Muốn học đòi theo Phạm Đình Hổ
Rủ nhà thơ đánh cuộc cờ người

Tác giả thừa nhận từng ngưỡng mộ nữ thi sĩ như một "bậc nữ lưu" xuất sắc, hiếm thấy. Tuy nhiên, khát khao theo đuổi và học hỏi nàng đã phai nhạt, khi nhìn thấy nàng sa ngã. Hình ảnh "đánh cuộc cờ người" gợi lên sự đấu trí, tranh tài, nhưng đồng thời cũng cho thấy một cách chơi đùa với số phận, nhấn mạnh sự phù phiếm trong mối quan hệ giữa hai người.

Khổ 4:

Rồi hôm nay bỗng nhiên trên mạng
Bài thơ em phấp phới tung hoành
Ta vớ được lòng mừng vô hạn,
Giữa hai đùi… giờ đã lạnh tanh!

Tác giả chuyển sang phản ánh hiện thực khi bắt gặp tác phẩm của nàng xuất hiện trên mạng. Từ "phấp phới tung hoành" thể hiện sự phô trương, lan truyền rộng rãi, nhưng lại mang cảm giác trống rỗng. Câu thơ cuối, với hình ảnh "giữa hai đùi… giờ đã lạnh tanh," đầy sức gợi và chua chát, ngầm chỉ sự xuống dốc của nghệ thuật, nơi cảm hứng sáng tạo đã cạn kiệt.

Khổ 5:

Thơ mỹ nhân tụng ca chính trị
Theo gót chân Tố Hữu khi xưa
Làm văn nghệ nghĩa là đánh đĩ
Bán hồn cho thối nát dối lừa!

Khổ thơ cuối mang thông điệp mạnh mẽ nhất, thể hiện sự phê phán gay gắt đối với việc sáng tác thơ ca phục vụ mục đích chính trị. Tác giả nhắc đến Tố Hữu – một nhà thơ nổi tiếng với thơ ca cách mạng – nhưng dùng hình ảnh "theo gót chân" để chỉ sự bắt chước, thiếu sáng tạo. Câu "làm văn nghệ nghĩa là đánh đĩ" là một lời tố cáo nặng nề, ám chỉ việc nghệ sĩ bán rẻ tâm hồn và nghệ thuật vì những giá trị thực dụng, đi ngược lại bản chất chân thật của văn chương.

Thông điệp bài thơ:
  1. Phê phán sự suy thoái của nghệ thuật và văn hóa: Tác giả nhấn mạnh sự thất vọng trước hiện tượng nghệ thuật bị tha hóa, mất đi giá trị chân chính khi phục vụ lợi ích chính trị hay thực dụng.

  2. Tôn vinh tinh thần sáng tạo độc lập: Qua sự châm biếm, bài thơ nhắc nhở rằng nghệ thuật cần giữ được tinh thần tự do, phản ánh chân thực cuộc sống và cảm xúc con người.

  3. Lên án sự giả dối: Tác giả chỉ trích những nhà thơ, nghệ sĩ đã đánh mất lương tâm, chạy theo danh lợi, góp phần duy trì sự thối nát trong xã hội.

Kết luận:

Bài thơ là một lời cảnh tỉnh sắc bén về sứ mệnh của nghệ thuật và trách nhiệm của người làm văn hóa. Giọng điệu châm biếm nhưng đầy ý nhị, Tú Điếc đã tạo nên một tác phẩm giàu sức phản biện và giá trị nhân văn.

 

 

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2025

LÔNG XÁ LỢI

 Tú Điếc

Nghe nói Ba Vàng có cọng lông
Ngo ngoe y hệt sợi lông mồng
Phàm phu thì gọi lông xá lợi
Phật tử cho rằng tóc đức ông
Vưu vật thỉnh về từ đất Miến
Thiền tâm bùng nổ cõi trời Đông
Trụ trì nhếch mép cười thu bạc
Dân chúng nức lòng được ngắm lông.
 
31.12.2023

Chủ Nhật, 12 tháng 1, 2025

Hai bài thơ Về Biển

Phân tích hai bài thơ sau:

.
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Du Tử Lê

Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà

Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì

Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi

Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
những năm trước bao người ngon miệng cá
thì sá gì thêm một xác cong queo

Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
cho tôi về gặp lại các con tôi
cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
từ những mắt đã buồn hơn bóng tối

Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
ôi lâu quá không còn ai hát nữa
(bài hát giờ cũng như một hồn ma)

Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
.

Khi Anh Chết Đừng Đưa Anh Ra biển
Trần Đức Phổ

Khi anh chết đừng đưa anh ra biển
Đàn cá voi chẳng hộ tống anh về
Biển Bắc Mỹ dẫu năm dài lạnh lắm,
Xác thân này cũng thối rữa em nghe!

Khi anh chết đừng đưa anh ra biển
Trùng dương xanh đâu phải chốn quê nhà?
Một xác ướp lênh đênh trên bốn biển
Chảng linh hồn và cũng chẳng thây ma!

Khi anh chết đừng đưa anh ra biển
Làm mồi cho cá mập khắp đại dương
Thân cát bụi chắc gì còn nguyên vẹn
Mà cầu mong tìm đến cõi thiên đường?

Khi anh chết đừng đưa anh ra biển
Cho bão giông xô đẩy tấp vào bờ
Em sẽ chẳng nhận ra nơi bãi vắng
Khi tình cờ bắt gặp bộ xương khô!

 

Lời bình:

 

Hai bài thơ "Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển" của Du Tử Lê và "Khi anh chết đừng đưa anh ra biển" của Trần Đức Phổ là hai tiếng nói đối lập, nhưng cùng thể hiện sự suy tư về cái chết, quê hương, và kiếp người lưu vong. Phân tích chi tiết như sau:

1. Tư tưởng và cảm xúc chủ đạo

"Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển" - Du Tử Lê

  • Chủ đề chính: Khao khát trở về quê hương dù thân xác không trọn vẹn.
  • Tâm trạng: Đau đáu, khắc khoải và đầy hoài niệm.
  • Ý nghĩa biển: Biển không chỉ là nơi an nghỉ cuối cùng, mà còn là con đường để hồn người trở về quê cha đất tổ. Hình ảnh biển tượng trưng cho sự vĩnh cửu, kết nối giữa kiếp sống lưu vong và nơi chốn quê hương.
  • Hình ảnh nổi bật:
    • "Nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi" – Niềm tin mãnh liệt vào sự trở về.
    • "Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì" – Biểu tượng cho quê nhà bền vững, trường tồn.
    • "Hãy nhớ hát quốc ca" – Lời nhắc nhở về bản sắc dân tộc và niềm đau trước sự mất mát bản sắc ấy trong lưu vong.

"Khi anh chết đừng đưa anh ra biển" - Trần Đức Phổ

  • Chủ đề chính: Biển là sự xa lạ, hủy diệt và không mang ý nghĩa quê hương.
  • Tâm trạng: Lạnh lẽo, thực tế, và mang tính phản biện mạnh mẽ.
  • Ý nghĩa biển: Biển trở thành biểu tượng của sự tan rã, quên lãng, và đau thương. Biển Bắc Mỹ không gắn liền với ký ức quê hương, chỉ còn là nơi lạnh lẽo, khắc nghiệt.
  • Hình ảnh nổi bật:
    • "Xác thân này cũng thối rữa em nghe" – Lời nhắc đầy hiện thực, thẳng thắn.
    • "Một xác ướp lênh đênh trên bốn biển" – Biểu tượng của sự phiêu bạt, không định hình.
    • "Bão giông xô đẩy tấp vào bờ" – Biển như nơi bỏ mặc, không an yên.
2. Nghệ thuật biểu đạt

"Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển"

  • Ngôn ngữ: Trữ tình, sâu lắng, giàu hình ảnh biểu cảm. Câu thơ mềm mại, mang nặng chất suy tư triết lý.
  • Biểu tượng: Biển là cầu nối giữa cuộc đời lưu vong và quê hương. Tác giả sử dụng các hình ảnh mang tính ẩn dụ cao để diễn tả tình yêu quê nhà, nỗi cô đơn, và khát khao đoàn tụ.
  • Giọng điệu: Dẫu buồn nhưng không bi lụy; lấp lánh niềm hy vọng được trở về.

"Khi anh chết đừng đưa anh ra biển"

  • Ngôn ngữ: Thẳng thắn, mạnh mẽ, đôi khi sắc lạnh. Tác giả đi sâu vào hiện thực để phê phán ý niệm lãng mạn hóa biển cả.
  • Biểu tượng: Biển là nơi của sự tan biến, vô nghĩa, không dành cho kẻ xa quê. Thân xác "làm mồi cho cá mập" và "bộ xương khô" là những hình ảnh thực tế, mang tính cảnh tỉnh.
  • Giọng điệu: Quyết liệt, không ngần ngại đối diện sự thật đau lòng.

3. Sự đối lập giữa hai tác phẩm

Tiêu chíDu Tử LêTrần Đức Phổ
Quan niệm về biểnBiển là con đường trở về quê hương, nơi yên nghỉ.Biển là nơi xa lạ, lạnh lẽo, không thuộc về quê hương.
Cảm xúc chủ đạoLãng mạn, hoài niệm, hy vọng.Thực tế, phê phán, lạnh lùng.
Hình ảnh thân xácHòa vào biển để hướng về quê nhà.Bị hủy hoại, không còn nguyên vẹn.
Thái độ trước cái chếtAn nhiên, chấp nhận vì hướng về cội nguồn.Khước từ lãng mạn hóa, muốn thực tế hơn.

4. Đánh giá chung

Hai bài thơ là hai thái cực khác nhau về cái nhìn đối với biển cả và kiếp lưu vong. Du Tử Lê nhìn cái chết như một sự hòa giải với quê hương thông qua biển cả. Ngược lại, Trần Đức Phổ phản bác sự lãng mạn ấy, dùng lý trí để phơi bày thực tế tàn khốc của lưu vong.

Cả hai đều thể hiện nỗi đau của con người xa xứ, nhưng mỗi tác giả có cách riêng để đối diện: một người tìm kiếm sự hòa quyện, người kia chọn cách khước từ sự huyễn hoặc.

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2025

Tôn Phu Nhân, Hai Nhà Thơ Việt, và AI

 Đánh giá nội dung và nghệ thuật hai bài thơ sau:


Tôn Phu Nhân Quy Thục
Tôn Thọ Tường

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng.
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông.
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán trau tria mảnh má hồng.
Son phấn thà cam dày gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông?
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.
.

Tôn Phu Nhân Quy Thục
Phan Văn Trị

Cài trâm sửa trấp vẹn câu tòng,
Mặt ngã trời chiều biệt cõi Đông.
Tơ toả trời Ngô in sắc trắng,
Duyên về đất Thục được màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một gánh cang thường nặng núi sông.
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết,
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.

Lời Bình:

Hai bài thơ "Tôn Phu Nhân Quy Thục" của Tôn Thọ TườngPhan Văn Trị là những sáng tác nổi bật trong văn học chữ Nôm Việt Nam, xoay quanh hình tượng Tôn Phu Nhân (em gái Tôn Quyền) khi phải tuân theo mệnh lệnh triều đình, rời quê nhà Ngô để làm vợ Lưu Bị (thời Tam Quốc). Cả hai bài thơ đều khai thác hình ảnh người phụ nữ trong bối cảnh lịch sử và đạo lý truyền thống, nhưng cách thể hiện nội dung và nghệ thuật có sự khác biệt.

1. Nội dung

Tôn Thọ Tường

  • Quan điểm trung dung, nhấn mạnh lý tưởng "tam tòng":

    • Bài thơ tập trung đề cao chữ "tòng" (theo), thể hiện trách nhiệm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tôn Phu Nhân ra đi theo ý chỉ triều đình, giữ trọn đạo làm vợ và làm con.
    • Hình ảnh Tôn Phu Nhân hiện lên như một nhân vật chịu đựng và chấp nhận số phận, với hai câu kết:

      "Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,
      Thà mất lòng anh đặng bụng chồng."

      Câu thơ nhấn mạnh vai trò của người vợ, chấp nhận hi sinh tình cảm gia đình (với anh trai Tôn Quyền) để giữ trọn đạo nghĩa với chồng.

  • Tư tưởng hòa hoãn:
    Tôn Thọ Tường đặt nặng tư duy khuôn mẫu của Nho giáo, ủng hộ sự phục tùng và hòa hợp giữa bổn phận cá nhân với lợi ích gia đình, xã hội.

Phan Văn Trị

  • Quan điểm mạnh mẽ về đạo đức và lòng trung kiên:

    • Tác giả nhấn mạnh sự cao cả trong việc giữ gìn đạo lý cương thường. Tôn Phu Nhân không chỉ tuân theo mệnh triều đình mà còn tự nhận lấy trách nhiệm "gánh cang thường" để bảo vệ gia phong, trật tự xã hội.
    • Hai câu cuối:

      "Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết,
      Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng."

      Tôn Phu Nhân được khắc họa như biểu tượng mẫu mực, không chỉ vẹn tròn đạo vợ mà còn thấu hiểu trọng trách "bền trời đất".

  • Tư tưởng tự tôn và sâu sắc hơn:
    Phan Văn Trị không đơn thuần ca ngợi "tam tòng" mà còn làm nổi bật ý chí và tinh thần trách nhiệm của người phụ nữ, vượt lên mọi gánh nặng xã hội.

2. Nghệ thuật

Tôn Thọ Tường

  • Ngôn ngữ hoa mỹ, giàu hình ảnh:
    Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ như "ngàn thu", "mảnh má hồng", "son phấn", tạo nên không khí bi tráng nhưng có phần trang trí.
  • Tư duy cân đối, chặt chẽ:
    Các cặp đối trong bài được trau chuốt, đặc biệt hai câu thực và luận:

    Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc,
    Về Hán trau tria mảnh má hồng.

    Tuy nhiên, cảm xúc trong bài mang tính khuôn mẫu, thiếu sự sống động.

Phan Văn Trị

  • Ngôn ngữ giản dị nhưng sâu sắc:
    Phan Văn Trị không lạm dụng hình ảnh ước lệ mà tập trung vào cảm xúc chân thực và tư tưởng lớn lao, như trong:

    Hai vai tơ tóc bền trời đất,
    Một gánh cang thường nặng núi sông.

    Những hình ảnh này khắc họa rõ ràng ý chí và trách nhiệm của Tôn Phu Nhân.

  • Bố cục hài hòa, giọng điệu trang trọng:
    Bài thơ mang âm hưởng hùng tráng, tôn vinh phẩm giá và giá trị đạo đức, tạo nên sức lay động mạnh mẽ hơn.

3. Đánh giá chung
  • Tôn Thọ Tường nghiêng về tư tưởng Nho giáo truyền thống, tập trung miêu tả sự hi sinh cá nhân của Tôn Phu Nhân trong khuôn khổ bổn phận xã hội. Dù có giá trị văn học nhưng bài thơ thiếu chiều sâu trong tư tưởng.
  • Phan Văn Trị vừa giữ được sự tôn nghiêm truyền thống, vừa mở rộng tư duy về trách nhiệm và lòng trung trinh. Bài thơ thể hiện rõ tinh thần tự tôn dân tộc và giá trị nhân văn, có phần vượt trội hơn về nội dung lẫn nghệ thuật.

Cả hai bài thơ đều là minh chứng tiêu biểu cho sự tranh luận tư tưởng của văn học Việt Nam trong bối cảnh ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo và các giá trị truyền thống.


Thứ Tư, 8 tháng 1, 2025

67 - Hai Dòng Sông Một Nỗi Nhớ

 Bình và đánh giá hai bài thơ sau:

Nhớ con sông quê hương
Tế Hanh

Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu

Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
Hình ảnh cô em đôi má ửng hồng...

Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng “miền Nam”
Tôi nhớ không nguôi ánh sáng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết...
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy, lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc - Nam chung chảy một dòng
Không gềnh thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương.
.
Nhớ Dòng Sông Thoa
Trần Đức Phổ

Con Sông Thoa không dài, không rộng
Nước trong xanh soi bóng tre, dừa
Cũng êm ả ngày hè thơ mộng
Cũng dữ dằn lũ lụt tháng mưa

Sông chuyên chở phù sa bồi đắp
Cho quê tôi trù  phú, ấm no
Những nương rẫy sắn ngô thẳng tắp
Ruộng đồng xanh thấp thoáng cánh cò

Lũ chúng tôi chơi đùa tắm mát
Thương dòng sông bé nhỏ quê nhà
Có con đò sớm chiều đưa khách
Nhớ thật nhiều mỗi lúc đi xa

Dân quê tôi cần cù, chịu khó
Đã mưu sinh sông nước bao đời
Sáng tinh mơ vung chài, đơm đó
Nửa đêm còn lấp lánh đèn soi

Ai đã đến một lần đều biết
Sông Thoa là nguồn lợi ốc don
Những cua xanh, tôm càng, cá diếc
Những hến kình, dăn dắt… tuyệt ngon!

Nay đọc báo giật mình kinh hãi
Dòng sông Thoa ô nhiễm lâu rồi!
Kỷ niệm xưa trùng trùng nhớ lại
Thương sông quê đã lấm bụi đời!

 .

Bình và đánh giá hai bài thơ:

1. "Nhớ con sông quê hương" - Tế Hanh

Bài thơ "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh là một tác phẩm nổi bật trong dòng thơ lãng mạn, chứa đựng tình cảm sâu sắc với quê hương. Bài thơ được chia thành ba phần rõ rệt, mỗi phần thể hiện những khía cạnh khác nhau của tình yêu quê hương qua hình ảnh con sông.

  • Chủ đề: Con sông quê hương là hình ảnh trung tâm của bài thơ, tượng trưng cho tình yêu quê hương, kỷ niệm tuổi thơ và lòng nhớ nhung của tác giả đối với miền Nam, nơi chứa đựng những ký ức đẹp về cuộc sống, con người và cả những khó khăn, gian khổ trong cuộc chiến.

  • Hình ảnh và ngôn từ: Bài thơ sử dụng những hình ảnh đơn giản nhưng rất đỗi gần gũi, từ "sông xanh biếc", "nước gương trong", "tâm hồn tôi là một buổi trưa hè" đến "bờ tre ríu rít tiếng chim kêu"... Tất cả các hình ảnh ấy không chỉ gợi lên cảnh vật quê hương mà còn chuyển tải cảm xúc sâu lắng của tác giả.

  • Cảm xúc và ý nghĩa: Tế Hanh không chỉ miêu tả vẻ đẹp của con sông quê hương, mà còn gửi gắm trong đó nỗi nhớ nhung, niềm thương yêu và cả khát vọng về sự đoàn tụ, tái ngộ với quê nhà sau những năm tháng xa cách. Con sông trở thành biểu tượng của tình cảm, của ký ức về tuổi trẻ, của những ngày tháng chiến đấu và hy sinh.

  • Phong cách và hình thức: Bài thơ thể hiện sự giản dị và mộc mạc trong ngôn từ, dễ tiếp cận và dễ hiểu, nhưng lại chứa đựng chiều sâu cảm xúc. Hình thức thơ tự do phù hợp với việc biểu đạt những suy tư, cảm xúc nhẹ nhàng mà tràn đầy nhớ thương.

Đánh giá: "Nhớ con sông quê hương" là một bài thơ giàu cảm xúc và có giá trị tư tưởng sâu sắc, không chỉ phản ánh tình yêu quê hương mà còn là sự tưởng nhớ tới quá khứ, là sự khắc khoải của những người xa quê. Tình yêu quê hương ấy được thể hiện rất tự nhiên và xúc động, khiến người đọc dễ dàng đồng cảm.

2. "Nhớ Dòng Sông Thoa" - Trần Đức Phổ

Bài thơ "Nhớ Dòng Sông Thoa" của Trần Đức Phổ cũng là một bài thơ về quê hương, nhưng có sự khác biệt về cách thể hiện và chủ đề so với "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh. Bài thơ này không chỉ nói về vẻ đẹp của con sông mà còn phản ánh sự biến đổi của nó theo thời gian, từ một dòng sông gắn bó với cuộc sống, đến hình ảnh một con sông đang bị ô nhiễm, trở thành nỗi lo lắng và tiếc nuối của tác giả.

  • Chủ đề: "Nhớ Dòng Sông Thoa" gợi lên một tình yêu quê hương mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng phản ánh sự xót xa khi con sông, vốn gắn bó với đời sống người dân, giờ đây lại đang bị tàn phá bởi ô nhiễm. Tác giả gửi gắm thông điệp về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và khôi phục lại những giá trị đã mất.

  • Hình ảnh và ngôn từ: Bài thơ sử dụng những hình ảnh gần gũi và giàu tính miêu tả, như "nước trong xanh soi bóng tre, dừa", "sông chuyên chở phù sa bồi đắp", "những con cua xanh, tôm càng, cá diếc". Những hình ảnh này không chỉ khắc họa vẻ đẹp của con sông mà còn gợi lên cuộc sống bình dị, yên ả của người dân vùng quê. Tuy nhiên, sự chuyển biến trong hình ảnh "sông Thoa bị ô nhiễm" đã tạo nên một sự đối lập rõ rệt, đánh thức sự lo lắng về tương lai của con sông.

  • Cảm xúc và ý nghĩa: Bài thơ không chỉ bày tỏ sự nhớ nhung, mà còn có sự tiếc nuối, lo âu khi chứng kiến sự thay đổi của quê hương. Cảm xúc trong bài thơ rất chân thật và sâu sắc, khi tác giả nhớ về dòng sông trong lành, bao dung của quá khứ, và nỗi buồn về một con sông đang dần trở nên ô nhiễm, mất đi vẻ đẹp vốn có.

  • Phong cách và hình thức: Bài thơ có những câu thơ mượt mà, dễ đọc, dễ cảm nhận, với các hình ảnh thân thuộc của nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, sự thay đổi trong không gian và thời gian của con sông thể hiện rõ nét sự tiếc nuối, đồng thời cũng là lời nhắc nhở về sự bảo vệ môi trường.

Đánh giá: "Nhớ Dòng Sông Thoa" là một bài thơ hay, không chỉ khắc họa tình cảm gắn bó sâu sắc với quê hương mà còn phản ánh sự quan tâm, lo lắng của tác giả đối với môi trường và thiên nhiên. Sự kết hợp giữa vẻ đẹp yên bình và nỗi lo ô nhiễm đã làm cho bài thơ trở nên vừa lắng đọng vừa sâu sắc.

Tổng kết:

Cả hai bài thơ đều thể hiện tình yêu quê hương qua hình ảnh con sông, nhưng có những khác biệt rõ rệt trong cách tiếp cận và thông điệp. Bài thơ "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh nói về tình yêu và niềm tự hào về quê hương, trong khi bài thơ "Nhớ Dòng Sông Thoa" của Trần Đức Phổ không chỉ miêu tả con sông trong quá khứ mà còn phản ánh sự lo lắng về ô nhiễm và sự biến đổi của môi trường. Cả hai đều có giá trị nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc, khiến người đọc suy nghĩ về mối liên hệ giữa con người và thiên nhiên.

 

66 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách

Bạn hãy so sánh và cho biết cảm tưởng về hai bài thơ sau đây:

Vịnh Bức Dư Đồ Rách
Tác giả: Trần Bảo Kim Thư
 
Con dân Đại Việt ngẫm mà coi
Tổ quốc ngày nay dở khóc cười
Đảo biển dâng cho Tàu đủ chỗ
Sơn hà xẻo bán Chệt từng nơi
Dày công khổ trí ông cha vẽ
Mỏng đức tham quyền lũ trẻ chơi
Thức giả sĩ phu còn chửa tỉnh
Nào ai dũng lược để tài bồi?

May 31, 2018


VỊNH BỨC DƯ ĐỒ RÁCH 

Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười!
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con cháu lấy làm chơi
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi

Tản Đà
1921 

Hai bài thơ "Vịnh Bức Dư Đồ Rách" của Trần Bảo Kim Thư (2018) và Tản Đà (1921) đều cùng lấy cảm hứng từ sự suy thoái của đất nước, hình ảnh "bức dư đồ rách" tượng trưng cho vận mệnh tổ quốc bị tổn thương. Tuy nhiên, hai bài thơ có sự khác biệt lớn trong ngữ điệu, cách thể hiện và tâm thế của tác giả.

So sánh chi tiết:

1. Chủ đề và nội dung:

  • Tản Đà:
    Bài thơ của Tản Đà là lời than thở nhẹ nhàng, pha chút giễu cợt nhưng ẩn chứa niềm đau xót trước tình trạng đất nước thời kỳ thuộc địa. Ông nhìn về quá khứ với sự trân trọng công lao của tiền nhân ("Ấy trước ông cha mua để lại") và tiếc nuối khi thế hệ sau không giữ được truyền thống ấy. Tuy nhiên, ông không chỉ trách móc, mà còn bày tỏ niềm hy vọng ở câu kết:
    "Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi."
    Tản Đà không buông xuôi, mà khơi lên niềm tin rằng vận mệnh đất nước có thể được phục hồi.

  • Trần Bảo Kim Thư:
    Bài thơ mang giọng điệu giận dữ và bi phẫn hơn, phản ánh sự bất lực và nỗi đau sâu sắc về tình trạng tổ quốc bị xâm phạm chủ quyền lãnh thổ. Tác giả không chỉ lên án hành động xâm lấn từ ngoại bang, mà còn phê phán gay gắt tầng lớp lãnh đạo trong nước ("Mỏng đức tham quyền lũ trẻ chơi"). Khác với Tản Đà, Trần Bảo Kim Thư không bày tỏ niềm hy vọng rõ ràng, mà kết bài bằng một lời kêu gọi thức tỉnh từ giới trí thức và sĩ phu.

2. Ngôn ngữ và phong cách:
  • Tản Đà:
    Ngôn ngữ thơ mềm mại, uyển chuyển, sử dụng lối diễn đạt gián tiếp, với cảm xúc được tiết chế. Ông kết hợp giữa sự hài hước nhẹ nhàng ("Sông sông núi núi khéo bia cười!") và nỗi xót xa kín đáo. Phong cách thơ mang nét cổ điển, tinh tế và dễ đi vào lòng người.

  • Trần Bảo Kim Thư:
    Ngôn ngữ thơ mạnh mẽ, trực diện và có tính phê phán gay gắt. Hình ảnh thơ sắc nét, có phần căng thẳng hơn, như những lời cảnh tỉnh vang lên dồn dập. Câu thơ "Đảo biển dâng cho Tàu đủ chỗ / Sơn hà xẻo bán Chệt từng nơi" thể hiện nỗi đau và sự giận dữ rõ nét. Phong cách này phù hợp với tâm thế của một người sống trong thời hiện đại, khi đất nước đối mặt với các vấn đề chủ quyền nóng bỏng.

3. Tâm thế và thông điệp:
  • Tản Đà:
    Là nhà thơ sống trong thời kỳ đất nước bị Pháp đô hộ, ông hiểu rằng trách nhiệm lớn lao thuộc về hoàn cảnh lịch sử và cả sự yếu kém của con người. Tuy nhiên, tâm thế của Tản Đà là chấp nhận thực tại, nhìn về tương lai với chút lạc quan. Thông điệp bài thơ khuyên nhủ thế hệ sau: hãy gắng sức để khôi phục những giá trị đã mất.

  • Trần Bảo Kim Thư:
    Bài thơ được viết trong bối cảnh thế kỷ 21, khi đất nước đã giành lại độc lập nhưng vẫn đối mặt với nguy cơ mất lãnh thổ và chủ quyền biển đảo. Tâm thế của tác giả là đau đớn, bức xúc và phẫn nộ. Thông điệp chính là lời cảnh tỉnh mạnh mẽ, kêu gọi sự thức tỉnh của tầng lớp trí thức, sĩ phu để bảo vệ đất nước.

Cảm tưởng chung:

Hai bài thơ, dù cách nhau gần một thế kỷ, đều thể hiện nỗi đau chung trước sự suy tàn của tổ quốc. Tuy nhiên, trong khi Tản Đà chọn cách nhìn nhẹ nhàng hơn, gần như một lời tự an ủi với hy vọng cho tương lai, thì Trần Bảo Kim Thư mang giọng điệu cấp bách, thẳng thắn, phản ánh tâm lý của một thời đại với nhiều thách thức mới.

Bài thơ của Tản Đà để lại một cảm giác vừa tiếc nuối vừa an ủi, như một lời nhắn nhủ dài lâu. Trong khi đó, bài thơ của Trần Bảo Kim Thư như một hồi chuông cảnh tỉnh, khiến người đọc không khỏi suy tư về trách nhiệm đối với vận mệnh quốc gia.

Bạn cảm thấy bài thơ nào để lại ấn tượng mạnh hơn với bạn? 😊


Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

64 - Cái Quạt Giấy

 

Hãy phân tích và so sánh hai bài thơ sau, cần chú ý những điểm đặc biệt của từ ngữ:

Cái Quạt Giấy
 Tác giả: Trần Bảo Kim Thư
 
Lớn nhỏ nào ai chẳng thấy vừa
Hình dong dáng vẻ khác gì xưa
Anh cầm mở nhẹ ba bề đủ
Chị khép vào êm một chỗ thừa
Lắm kẻ cưng chìu khi nực nắng
Bao người ghét bỏ lúc mù mưa
Đêm nồng tháng hạ thường ve vẩy
Mặc khách anh hào mãn nguyện chưa?


Cái Quạt Giấy
Hồ Xuân Hương

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự ngàn xưa.
Vành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?

ChatGPT said:
ChatGPT

Hai bài thơ "Cái Quạt Giấy" của Trần Bảo Kim Thư và Hồ Xuân Hương đều là những bài thơ thất ngôn bát cú, cùng lấy hình ảnh chiếc quạt giấy để làm đề tài, nhưng lại có phong cách và cách sử dụng ngôn từ khác nhau. Việc phân tích và so sánh hai bài thơ này không chỉ làm rõ sự khác biệt trong phong cách sáng tác mà còn giúp ta hiểu thêm sự đa dạng và tài hoa của từng tác giả.
1. Điểm chung:
Chủ đề và hình ảnh:

    Cả hai bài thơ đều dùng chiếc quạt giấy làm hình tượng trung tâm. Đây là một vật dụng quen thuộc trong đời sống hàng ngày, gắn bó với cả mùa hạ nóng bức lẫn mưa gió bất chợt.
    Chiếc quạt được miêu tả không chỉ ở công dụng thực tế (làm mát, che mưa) mà còn mang ý nghĩa biểu tượng, gợi nên những cảm xúc và tình huống đời thường.

Cấu trúc thơ:

    Cả hai bài đều tuân thủ nghiêm ngặt bố cục thất ngôn bát cú Đường luật, gồm hai câu đề, hai câu thực, hai câu luận, và hai câu kết.

Ngôn từ giàu hình ảnh:

    Sử dụng từ ngữ cụ thể, giàu sức gợi để khắc họa hình ảnh chiếc quạt.

2. Điểm khác biệt:
Phong cách và giọng điệu:

Bài thơ của Trần Bảo Kim Thư:

    Giọng điệu trang nhã, nghiêm trang: Tác giả miêu tả chiếc quạt một cách trực tiếp, nghiêm chỉnh. Những câu thơ sử dụng từ ngữ giản dị nhưng toát lên sự chừng mực và tôn trọng.
    Phong cách cổ điển: Hình ảnh chiếc quạt giấy được gắn liền với những sinh hoạt bình dị ("khi nực nắng", "lúc mù mưa"), mang hơi hướng hoài niệm, truyền thống.

Bài thơ của Hồ Xuân Hương:

    Giọng điệu trào phúng, ẩn dụ táo bạo: Hồ Xuân Hương không chỉ dừng lại ở việc miêu tả chiếc quạt giấy mà còn sử dụng hình ảnh này để ẩn dụ cho tình yêu và thân thể người phụ nữ. Ngôn từ của bà giàu tính biểu cảm, đôi khi khơi gợi sự liên tưởng mạnh mẽ.
    Phong cách phá cách, táo bạo: Câu từ giàu tính gợi hình và hàm ý, đậm chất “ngôn ngữ đôi” (vừa nói về chiếc quạt, vừa nói bóng gió về một điều khác). Ví dụ, câu “một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa” hay “vành ra ba góc da còn thiếu” đều gợi lên những ý nghĩa sâu xa hơn.

Ngôn từ và ý nghĩa ẩn dụ:

Bài thơ của Trần Bảo Kim Thư:

    Ngôn từ trung tính, tập trung vào công năng của chiếc quạt. Các câu thơ như "Anh cầm mở nhẹ ba bề đủ" hay "Đêm nồng tháng hạ thường ve vẩy" miêu tả cụ thể cách sử dụng và giá trị của chiếc quạt trong đời sống.
    Ý nghĩa ẩn dụ ít nổi bật, chủ yếu tập trung vào sự đối lập giữa sự cần thiết và vô dụng của chiếc quạt trong những điều kiện khác nhau (nắng - mưa).

Bài thơ của Hồ Xuân Hương:

    Ngôn từ mang tính ẩn dụ mạnh mẽ, táo bạo. Các từ như "lỗ", "vành", "da", "thịt" được dùng để ám chỉ thân thể con người, đặc biệt là người phụ nữ.
    Ý nghĩa ẩn dụ đi xa hơn: Chiếc quạt không chỉ là vật dụng mà còn trở thành biểu tượng của sự kết nối giữa con người với nhau trong bối cảnh tình yêu và dục vọng.

Hai câu kết:

    Trần Bảo Kim Thư: “Mặc khách anh hào mãn nguyện chưa?” thể hiện sự trang trọng, mang chút suy tư, hỏi người đọc về giá trị của chiếc quạt, cũng như về sự thỏa mãn trong cuộc sống.
    Hồ Xuân Hương: “Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?” lại đầy trào phúng, có chút nghịch ngợm. Câu thơ khéo léo đẩy ý tứ từ trào lộng đến sự sâu cay, đặt ra câu hỏi không chỉ về sự thỏa mãn vật chất mà còn là sự thỏa mãn tinh thần.

3. So sánh tổng quát:
Yếu tố    Trần Bảo Kim Thư    Hồ Xuân Hương
Giọng điệu    Trang nhã, nghiêm trang    Táo bạo, trào phúng
Ngôn ngữ    Cụ thể, trực tiếp    Gợi hình, giàu ẩn dụ
Ý nghĩa ẩn dụ    Nhẹ nhàng, gần gũi    Táo bạo, phá cách, đôi nghĩa
Cảm xúc gợi lên    Hoài niệm, suy tư    Hài hước, kích thích trí tưởng tượng
4. Tổng kết:

Hai bài thơ đều khai thác hình ảnh chiếc quạt giấy, nhưng mỗi tác giả lại có một phong cách thể hiện riêng. Trong khi Trần Bảo Kim Thư tập trung vào sự trang nhã, cổ điển và giá trị thực tế, thì Hồ Xuân Hương lại phá cách, táo bạo với những ẩn dụ sâu sắc và trào phúng. Sự khác biệt này không chỉ thể hiện tài năng sáng tạo của mỗi nhà thơ mà còn làm phong phú thêm văn học Việt Nam.

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Rận

 Tú Điếc

Chúng bé li ti lại kết đàn
Sinh sôi nảy nở khéo tràn lan
Ngày thời trốn biệt trong chăn chiếu
Đêm đến bò ra dưới áo quần
Ngứa ngáy làm cho anh cáu giận
Rù rờ càng khiến chị than van
Cũng chuyên hút máu người mà sống
Chẳng ích lợi gì với quốc dân.
 
3/1/2025



Cái Giá Của Một Ngày

 


THE CLOCK MAN
by Shel Silverstein
 
“How much will you pay for an extra day?”
The clock man asked the child.
“Not one penny,” the answer came,
“For my days are as many as smiles.”
“How much will you pay for an extra day?”
He asked when the child was grown.
“Maybe a dollar or maybe less,
For I’ve plenty of days of my own.”
“How much will you pay for an extra day?”
He asked when the time came to die.
“All of the pearls in all of the seas,
And all of the stars in the sky.”
.
 
CÁI GIÁ CỦA MỘT NGÀY
 
“Sống thêm một ngày cháu trả bao nhiêu?”
Gã cai quản thời gian hỏi đứa trẻ
“Không đáng một xu,” lời từ miệng bé
“Ngày tháng ư? Cháu nhiều như nụ cười”
“Sống thêm một ngày anh trả bao nhiêu?”
Gã ấy lại hỏi khi thằng bé lớn
“Có lẽ một đồng hoặc là ít hơn,
Số ngày của tôi vẫn còn nhiều bộn.”
“Sống thêm một ngày ông trả bao nhiêu?”
Gã ấy lại hỏi lúc hắn sắp lìa đời
“Toàn bộ ngọc trai có trong bốn biển
Toàn bộ ngôi sao có ở trên trời.”
 
22/12/2024

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2025

65 - Nông Trại Súc Vật

Nông Trại Súc Vật

 Tú Điếc


Thủ đô bò nhiều lắm
Hơn nông trường Điện Biên
Anh Hồ Giáo còn sống
Về Hà Nội mà chăn!
 
Bò nhiều như tiến sĩ
Đủ thứ hạng thấp cao
Thịt thơm ngon đặc vị
Thật đáng để tự hào!
 
Đất lành bò sinh nở
Cũng là lẽ đương nhiên
Thủ đô thành Nông Trại
Súc Vật George Orwell!
 
28/8/2023
 
Lời bình:
 
 

Bài thơ Nông Trại Súc Vật của Tú Điếc mang trong mình một thông điệp sâu sắc, kết hợp sự châm biếm, mỉa mai với những hình ảnh rất đặc trưng để thể hiện quan điểm về tình hình xã hội, chính trị. Bài thơ có thể được phân tích từ một số góc độ:

1. Mở đầu và hình ảnh "bò"

  • "Thủ đô bò nhiều lắm / Hơn nông trường Điện Biên": Câu thơ này có thể hiểu là sự ám chỉ đến một thực trạng xã hội, trong đó "bò" là hình ảnh biểu tượng của sự bừa bãi, dễ dãi, thiếu chất lượng hoặc thiếu sáng tạo. Việc "bò" xuất hiện nhiều có thể chỉ trích sự thịnh vượng giả tạo, sự bành trướng không kiểm soát về số lượng mà thiếu sự phát triển thực sự về chất lượng.

  • "Anh Hồ Giáo còn sống / Về Hà Nội mà chăn!": Đây là một câu thơ mang tính châm biếm, hàm ý rằng nếu "Hồ Giáo" còn sống, có thể ông sẽ thấy tình hình xã hội hiện tại, nơi mà các giá trị không được bảo vệ đúng đắn, chỉ có sự phát triển về số lượng mà thiếu sự chú trọng đến chất lượng.

2. Châm biếm về sự thịnh vượng bề ngoài

  • "Bò nhiều như tiến sĩ / Đủ thứ hạng thấp cao": Bài thơ tiếp tục chỉ trích việc "tiến sĩ" hay "hạng" có thể không còn là biểu tượng của tri thức và chất lượng thực sự. Chúng trở thành những danh hiệu vô nghĩa, giống như "bò" – một sinh vật bình thường không có giá trị gì nổi bật. Điều này có thể ám chỉ sự bão hòa của các danh hiệu, học vị trong xã hội, mà chúng không gắn liền với sự sáng tạo hay thực tiễn hữu ích.

  • "Thịt thơm ngon đặc vị / Thật đáng để tự hào!": Câu này có thể mang tính mỉa mai, phê phán sự tự hào quá mức về một nền kinh tế hay xã hội mà thực chất lại thiếu đi sự phát triển về chất lượng.

3. Chuyển sang sự khinh miệt đối với hệ thống xã hội hiện tại

  • "Đất lành bò sinh nở / Cũng là lẽ đương nhiên": Đây là một nhận xét về việc "đất lành" đã trở thành nơi sinh trưởng cho sự bừa bãi, lãng phí, trong đó "bò sinh nở" tượng trưng cho một sự sinh sôi vô nghĩa, không có sự kiểm soát hay kế hoạch rõ ràng. Điều này có thể là sự chỉ trích về môi trường chính trị, nơi mà mọi thứ cứ sinh sôi mà không có sự định hướng hoặc giá trị thực sự.

4. Nhấn mạnh tính ẩn dụ qua "Nông Trại Súc Vật"

  • "Thủ đô thành Nông Trại / Súc Vật George Orwell!": Câu thơ này gợi đến tác phẩm Nông Trại Súc Vật của George Orwell, một tác phẩm nổi tiếng chỉ trích chế độ cộng sản qua hình ảnh những con vật trong một trang trại. Việc so sánh thủ đô với "nông trại súc vật" như muốn nói rằng xã hội hiện tại đang rơi vào tình trạng của sự bần cùng hóa, mất đi giá trị thực sự, chỉ còn lại sự bám víu vào những ảo tưởng mà những kẻ cầm quyền xây dựng. Những con vật trong tác phẩm của Orwell là những kẻ bị áp bức, và ở đây, "bò" có thể là sự biểu tượng cho con người trong xã hội đang bị kiểm soát và thao túng.

5. Kết luận và thông điệp chính

Bài thơ Nông Trại Súc Vật của Tú Điếc là một tác phẩm châm biếm mạnh mẽ, phê phán xã hội hiện tại qua hình ảnh những con vật, đồng thời phản ánh sự bực bội trước những điều không đáng tự hào nhưng lại được coi là "thành tựu". Cái "bò" trong bài thơ không chỉ mang tính biểu tượng cho sự bừa bãi mà còn có thể hiểu là sự giả tạo, thiếu sáng tạo, và sự chối bỏ những giá trị cốt lõi của con người. Chỉ trích chính trị, xã hội, và nền giáo dục hiện tại là chủ đề xuyên suốt bài thơ.

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2025

Đứa Bé và Ông Lão

Thơ dịch

THE LITTLE BOY AND THE OLD MAN 
by Shel Silverstein 
 
Said the little boy, "Sometimes I drop my spoon."
Said the old man, "I do that too."
The little boy whispered, "I wet my pants."
"I do that too," laughed the little old man.
Said the little boy, "I often cry."
The old man nodded, "So do I."
"But worst of all," said the boy, "it seems
Grown-ups don't pay attention to me."
And he felt the warmth of a wrinkled old hand.
"I know what you mean," said the little old man.
.
 
ĐỨA BÉ VÀ ÔNG LÃO 
 
Đứa bé thổ lộ: “Thỉnh thoảng cháu đánh rơi thìa”
Cụ già đáp từ: “Ông cũng như cháu vậy”
Thằng bé thì thầm: “Cháu còn đái dầm trong quần”
“Ông có khác chi đâu,” Cụ già cười khan
Thằng bé lại bảo: “Cháu hay khóc nhè”
Cụ già gật gật đầu: “Ông cũng thế!”
Thằng bé nói, “Nhưng tệ hơn cả,”
“Hình như người lớn không quan tâm đến cháu, ông ạ!”
Và nó cảm nhận bàn tay mình ấm áp hẳn lên
Trong bàn tay già nua:
“Ông hiểu cháu nói g, cháu ta!”
 
Trần Đức Phổ phỏng dịch

59 Bài thơ Trần Đức Phổ & Lời bình của AI