2
Cần cẩu chiếc xe cào đất to và dài như một cái càng cua khổng lồ đang vươn lên trời. Điểm chót của nó có cái vá múc bằng sắt đen xỉn khum khum như bàn tay bụm lại, nhưng năm ngón thì chỉa ra như những chiếc răng quái thú. Cái càng cua ấy từ từ đưa lại gần ngôi nhà, cái vá múc vào bức tường gạch sơn màu vàng nhạt của căn nhà cấp bốn khang trang. Gạch và vôi vữa đổ xuống loảng xoảng. Tường nhà bị khoét một lổ to đùng, lởm chởm. Cái bàn tay quái thú thu về rồi lại vươn ra lần nữa. những viên gạch vỡ tuôn xuống đất rào rào. Bức tường trống hoác, nức nẻ, nhưng chưa xụm hẳn.
- Cào nhà! Cào nhà, bây ơi! Tới coi nè! – Tiếng mấy đứa trẻ
reo lên hớn hở.
Rồi người lớn, trẻ con từ trong xóm kéo tới, họ túm tụm thành từng đam, đứng ở ngoài đường nhìn vào, đông nghìn nghịt. Đây là một việc hy hữu hiếm gặp ở cái làng chài nghèo nàn này. Nhiều gia đình nơi đây suốt đời làm ăn tằn tiện vẫn không thể nào cất được một căn nhà cao ráo, đẹp đẽ thì việc phá bỏ một căn nhà đang trong tình trạng còn tốt là một điều ngoài sức tưởng tượng của họ. Nói chi lại là một ngôi nhà gạch, tường vôi, mái lợp tôn, mới xây. Với chiều ngang độ chừng sáu thước và chiều dài hai mươi thước, có thể nói đây là căn nhà thuộc hạng khá lớn trong làng. Nhà xây hai mặt tiền. Năm cây cột và máng xối được đổ bê tông cốt sắt, ngoài ốp gạch men láng trông rất mỹ lệ. Nền nhà lót gạch Ý-đại-lợi in hoa văn, sáng bóng như gương. Nói chung ở cái làng chài bãi ngang này nó như biểu tượng của một gia đình sung túc.
- Uổng quá! Căn nhà đẹp như thế, sao lại cào đi nhở? – Một người hỏi.
- Anh em họ bất hòa với nhau nên thế! – Có tiếng trả lời.
- Nghe nói nhà bỏ hoang, có ma! – Một người khác nói.
- Xì! Ma với quỷ gì! Ganh tị, giành đất thì có! – Lại một người
khác xen vào.
Mọi người lớn bàn tán ì xèo, còn lũ trẻ lại khoái trá cười đùa, là hét mỗi khi vách tường đổ rầm rầm, tiếng gỗ kêu răng rắc, và những tấm tôn méo mó rớt loảng xoảng. Con quái thú vẫn tiếp tục công việc hủy hoại của nó. Mãi đến khi mặt trời lên đến ngọn tre thì mission accomplished.
Lúc này, căn nhà đã hoàn toàn sụp đổ. Trên nền đất: gạch, vữa, gỗ đòn tay, lõi thép, tấm tôn… nằm ngổn ngang. Quang cảnh điều tàn như bất cứ một cảnh đập phá man rợ của bọn giặc dã man thời trung cổ. Sự đổ nát nào trông cũng thật ảm đạm, thê luiơng. Đám đông bắt đầu giải tán, nhưng một số bà sồn sồn thì vẫn còn ngồi túm tụm lại với nhau bàn tán, dưới bóng mát những lùm tre xanh rì.
Một người nói:
- Cái con đó thâm độc ghê thiệt! Mẹ nó vừa mới qua đơi, nó đã cào nhà bà ấy rồi!
- Bà còn lạ gì con gái nuôi bà Gon. Nó là loại bán trời không sợ thiên lôi đả mà!
Một bà khác tỏ ra am tường vấn đề:
- Nghe đâu nhà này do ông anh nuôi nó xây? Khi bà Gon qua đời Thị Mót hỏi xin, nhưng ông anh nuôi không cho, bảo để làm chỗ thờ phượng ông bà. Ngôi nhà không có chủ kể từ đó, nên nó mới cào bỏ đi. Nghe đồn rằng con cái nó thấy xuất hiện những thứ không sạch sẽ trong căn nhà ấy.
Một bà khác, hình như là láng giềng, thân cận có vẻ hiểu rõ sự tình hơn, kể.
- Đúng vậy! Đây là nhà của ông anh nuôi nó xây cho bà mẹ ở. Còn nhà của nó kế bên – Bà ta giơ tay chỉ căn nhà nhỏ thấp lè tè bên cạnh đống hổ lốn, hầm bà lằng vừa hình thành, cao như một quả đồi con. – Bà nọ nói tiếp:
- Họ chỉ là hai anh em, nhưng không phải ruột thịt. Tui nghe nói hồi năm 1965, 1966 gì đó vợ chồng bà Gon trong một lần chạy càn lính Mỹ đã lượm được đứa bé sơ sinh bên vệ đường. Chẳng biết ai chạy giặc đánh rơi hay sinh ra rồi bỏ, nhưng thấy đứa trẻ tội nghiệp bà Gon đem về nuôi, thương yêu như con ruột. Bà đặt tên cho cô bé là Mót, với ý nghĩa như lượm mót được. – Kể đến đây bà ta móc trong túi áo bà ba lấy ra chiếc iPhone để xem giờ rồi phủi đít đứng dậy nói:
-Trưa rồi, thôi, tui phải về nấu cơm cho tụi nhỏ!
Mây bà kia vội nắm lấy tay bà kéo lại nói:
- Mới chín rưỡi mà! Còn sớm chán. Bà kể tiếp câu chuyện đi. Bà kia ngần ngừ một chút nhưng cũng ngồi xuống.
- Năm 1975, ông Gon qua đời, bà ở vậy nuôi hai đứa con chứ không tái giá. Trong những năm bao cấp thiếu ăn, thiếu mặc nhưng bà vẫn cho hai đứa trẻ đến trường. Nhưng vì học dốt và lười nên học xong lớp bảy thì Thị Mót bỏ ngang, ở nhà phụ giúp mẹ. Thằng anh học xong lớp 12 đi bộ đội, rồi đào ngũ, vượt biên luôn. Cô em ở nhà lấy chồng sớm đẻ con cả đàn cả đống. Không nhờ thằng anh nó thì làm gì nó nuôi nổi bầy con nó những năm trước đổi mới chớ. Vậy mà nó đành đoạn. Kể đến đây bà ta chép miệng thở dài như than vãn cho thế thái nhân tình, rồi đứng lên. Cả mấy bà kia cũng đứng dậy giải tán.
oOo
Lại nói chuyện Thị Mót. Nhà chồng tuy cũng khá giả nhưng còn năm sáu đứa con nhỏ nên chẳng giúp được gì cho vợ chồng ả. Khi gia đình ả ra riêng, Bà Gon cho cất một ngôi nhà nhỏ trong khu vườn của mình vì nghĩ rằng ở gần nhau cho có mẹ có con. Ngày nọ, chính quyền rao gọi mọi người làm sổ đỏ, vì già yếu bà Gon sai y thị đi làm giùm. Nhân cơ hội này Thị Mót bằng khai chính y thị là chủ sở hữu mảnh vườn. Bà Gon biết chuyện nhưng cũng cho qua vì nghĩ rằng khi mình chết vườn tược của cải đều thuộc về ả thì nói ra chi để mẹ con xích mích.
Thằng anh sống độc thân ở nước ngoài, làm ăn khá giả nên thường gửi tiền về phụ giúp cho em. Cách đây chừng hơn chục năm thằng anh về quê cưới vợ và làm căn nhà này trên nền đất cũ của ông bà để lại. Nhưng mảnh vườn lại do Thị Mót đứng tên quyền sử dụng đất. Với tính tin người, thật thà và luôn quý trọng tình anh em nên anh không hề nghĩ đến việc chia chác hay giành lại quyền sở hữu chủ. Lúc ấy anh em còn hòa thuận với nhau. Rồi thằng anh cưới vợ ở quê. Vì muốn ở bên mẹ già một thời gian nên anh ta không vội bảo lãnh vợ sang nước ngoài mà về lại quê hương làm ăn sinh sống. Từ ngày thằng anh cưới vợ, Thị Mót không còn được nhờ cậy gì nên tình cảm anh em đâm ra lợt lạt. Một đêm nọ, cô vợ thằng anh tắm, đứa con trai mười lăm tuổi của Thị Mót sang nhìn trộm. Thằng anh bắt gặp tại trận, liền nắm lấy tay đứa cháu vô nghì dẫn sang nói chuyện với cô em, bảo phải răn dạy. Lúc đó, thằng chồng ả đi biển xa chưa về. Thị Mót mặt mày xanh xám, miệng nói như van lơn xin anh bỏ qua. Người anh cũng chỉ muốn thằng cháu biết nhận lỗi và bỏ cái thói hư tật xấu kia chứ cũng chẳng ghét bỏ gì cháu. Gần nửa tháng sau, chồng cô em trở về, không biết ả kể lại như thế nào với chồng mà anh vợ em rể bỗng nhiên sinh ra cãi vã một trận dữ dội. Họ suýt lao vào đánh nhau, may mà có hàng xóm tới khuyên can. Kể từ đó hai gia đình trở nên hận thù nhau. Bà mẹ tất nhiên là tin tưởng con trai của mình, nhưng cũng không khuyên lơn giải hoa được cho họ. Rồi thằng anh dẫn vợ bỏ nhà đi sang nước ngoài sinh sống. Ngôi nhà của thằng anh để lại cho bà mẹ già cư ngụ. Từ lúc bà Gon qua đời căn nhà đóng cửa bỏ hoang. Thị Mót vì sĩ diện chẳng thèm hỏi xin để ở. Ông anh thì ghét cái quân ăn cháo đá bát nên cũng chẳng thèm cho. Thế là Thị Mót mỗi khi đi ra đi vào thấy căn nhà sừng sững thế kia bỗng nhiên phẫn uất. Ả căm ghét hàng cột cao vuông, những cái cửa gỗ lên nước sơn đỏ au, và bức tường dài quét sơn vàng tươi như vỏ chuối. Thế là ả phao tin ông thầy bói mù ở xóm chợ bảo nhà có ma phải cào đi. Những đứa con ả hùa theo rêu rao nếu không phá bỏ căn nhà ấy thì gia đình ả sẽ bị yêu quỷ quấy phá, gia đạo bất an.
Mặt trời đã đứnng bóng. Con quái vật đã rời khu vườn. Dấu tích căn nhà bây giờ chỉ còn là một đống xào bần. Ánh nắng chiếu vào những tấm tôn rách nát, những tia phản quang loang loáng như những ánh đao quang rợn người. Khung cảnh im vắng, đổ nát và điêu tàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.