Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2022

Đào Ngũ

 

ĐÀO NGŨ

Đoàn xe chở toán tân binh rời khỏi doanh trại Quy Nhơn vừa lên đến đỉnh đèo An Khê thì dừng lại, nép vào một bên lề, nhường đường cho một đoàn xe nhà binh khác đang chạy ngược chiều, về hướng Quy Nhơn. Chúng tôi thấy trên mỗi chiếc xe ấy là những anh bộ đội mặc mày hốc hác, phờ phạc. Người nào cũng quấn bông băng trên đầu hoặc ở tay chân. Họ nằm ngồi la liệt trên sàn xe. Đây chính là những thương binh được chuyển về từ chiến trường K., tuy mình mẩy đầy thương tích nhưng may mắn còn sống sót để quay trở về quê hương. Lúc xe chạy ngang qua chúng tôi đưa tay vẫy chào và họ cũng vẫy chào lại. Nhưng gương mặt trẻ măng buồn xo.
Lúc xe dừng bánh là mới nửa buổi trưa nhưng bầu trời âm u, gió lạnh. Đèo An Khê đồi núi chập chùng, cây cối xanh rậm rì. Khi chiếc xe ngược chiêu đầu tiên vừa đi qua thằng Minh nháy mắt ra hiệu như hỏi tôi có muốn đi tiểu tiện không. Tôi hiểu ý nó đang rủ tôi bỏ trốn vào rừng. Tôi nhìn rừng núi điệp trùng, lòng hơi e ngại. Hơn nữa không biết đoàn xe dừng lại trong bao lâu? Chúng tôi có kịp thoát thân không? Nghĩ ngợi một chốc tôi lắc đầu. Thằng Minh tiu nghỉu.
Mười phút sau, đoàn xe thương binh qua hết, tôi nghe có tiếng người tri hô ở phía sau, hình như có người đã bỏ trốn, và đã bị bắt lại. Sau một hồi lộn xộn, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Từ đó đoàn xe không dừng lại ở đâu nữa. Đến xế chiều thì chúng tôi về đến căn cứ của Trung đoàn Ba Gia (E1), thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh, một Trung đoàn khá thiện chiến của Quân khu 5, đang đóng doanh trại chờ bổ sung quân số dưới chân đèo Mang Giang, tỉnh Gia Lai-Kontum.
 
Khi tôi và thằng Minh được biên chế về một Trung đội pháo cối 82 ly thì trời đã chạng vạng. Đúng lúc đó một cơn mưa đổ xuống. Tiết trời cao nguyên trung tuần tháng Chạp se se lạnh.
 
Ngày hôm sau, chúng tôi được tham gia học tập cùng một tổ súng cối. Biên chế vận hành của một tổ súng cối 82 ly chỉ cần ba người, nhưng để tăng quân số, ở đơn vị tôi, mỗi tổ lại có bốn người. Một đồng chí chỉ huy, một đồng chí khác nạp đạn vào khẩu pháo, và thằng Minh phụ trách chuyển đạn. Tôi làm nhiện vụ quan sát mục tiêu và theo dõi tọa độ nơi đầu đạn nổ. Tiếng là làm “con mắt” cho tổ súng nhưng thật ra tôi chẳng làm gì cả. Mỗi lần tập, tôi chỉ việc tìm một gò đất cao, hoặc trèo lên một cái cây nào đó, đưa ống nhòm lên tìm một mục tiêu, rồi báo cho chỉ huy tổ súng biết, để anh này day nòng khẩu pháo theo hướng đó hoặc nâng lên hạ xuống theo tầm xa. Chỉ thế thôi là đã xong việc! Bởi có bắn đạn thật đâu mà biết đạn có trúng mục tiêu hay không để điều chỉnh!. Phần thằng Minh cứ vác mấy cái đầu đạn hết chạy xuôi lại chạy ngược. Khổ nhất là lúc thực tập hành quân. Mỗi lần diễn tập nó vừa mang ba lô, vừa phải mang chân pháo ba càng, mệt bở cả hơi tai. Tôi ngoài ba lô chỉ khoác khẩu AK trên vai, và đeo cái ống nhòm toòng teng trước ngực. Những lần báo động hành quân ban đêm, thằng Minh càng vất vả. Trời tối lờ mờ, đường đi ghập ghềnh mang nặng mà phải lội suối, băng rừng, leo dốc vài tiếng đồng hồ khiến nó mệt ná thở. Mỗi lần như thế, trên đường về nó luôn nhờ tôi vác phụ càng chân súng cối.
 
Tuy là ở nơi “đèo heo gió hút” nhưng cuối tuần bọn tôi cũng có được thú vui. Đó là đi ra thị tứ Hà Tam dạo “phố”. Chiều chủ nhật đầu tiên, lúc mới đến chúng tôi theo các đồng chí ‘lính cũ’ đi ‘khám phá’ “phố núi”. Thị tứ Hà Tam (ngày nay là thị xã) nằm ngay trên trục đường Quốc lộ 19, dưới chân đèo Mang Giang là một khu thị tứ nhỏ, nghèo nàn như mọi thị tứ khác thời bấy giờ. Chúng tôi ra đây để uống rượu đế, uống cà phê đen và ghẹo các cô gái ‘miền sơn cước’. Nhưng rồi cái thú vui ấy cũng không còn. Trung tuần tháng Chạp, toàn Trung đoàn có lệnh cấm trại. Trong các đơn vị đã có lời đồn râm ran rằng sau Tết, Sư 2 sẽ mở chiến dịch mùa khô tiêu diệt tàn quân Pol Pot ở biên giới Campuchia – Thái. Một vài đại đội đã có người đào ngũ. Tôi nghe loáng thoáng có A trưởng đã dẫn cả một tiểu đội đào thoát. Hoang mang vô cùng!
 
Một buổi chiều thứ bảy, tôi và thằng Minh vừa rắm xong, từ con suối gần lán trại trở về. Lúc ngang qua nơi làm việc của Trung đội trưởng, thấy có mấy đồng chí đang đứng thập thò trước cửa lán đóng kín mít. Tò mò chúng tôi đứng lại xem cho biết có chuyện gì xảy ra. Chợt nghe tiếng huỳnh huỵch... huỳnh huỵch... như có người đang đấm đá vào bao cát. Rồi có tiếng rống to lên, sau đó là tiếng khóc hụ hụ... Tôi hỏi khẽ một đồng chí đứng gần chuyện gì. Anh ta cho biết, thằng Phong sáng nay đào ngũ. Chiều này trung đội bắt về được nên bây giờ bị ‘mần thịt’. Ai chứ thằng Phong thì tôi biết. Nó người Phú-Khánh, đến đơn vị cùng lúc với tôi và Minh. Dáng người béo núc, lầm lì và ít nói. Không ngờ nó gan thế, một mình dám trốn trại băng rừng từ đây về Nha Trang. Tôi và thằng Minh không hỏi gì thêm, lẳng lặng đi về lán của mình.
 
Chiều hôm sau, thằng Minh rủ tôi lên căng tin mua quà ăn vặt. Mỗi đứa mua một miếng kẹo đậu phộng sênh đường đen, đổ trên một miếng bánh tráng hình tam giác. Lúc về nửa đường, Minh bảo tôi dừng lại ngồi nghỉ trên một phiến đá bên vệ đường. Ngó trước, ngó sau không thấy ai, nó nói nhỏ với tôi:
 
- Tối nay tao bỏ trốn, mày có đi không?
Tôi suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Tao hết tiền rồi!
Quả thật, túi tôi không còn một đồng teng. Lúc tôi đi tòng quân mẹ có cho tôi một ít tiền. Số tiền đó ngày ở quân trường Phù Cát tôi dùng để chỉnh sửa lại hai bộ quân phục mà mỗi tân binh được lãnh, để mặc cho vừa vặn. Còn lại tôi tiêu từ đó đến nay đã hết sạch. Thằng Minh vỗ vỗ vào túi áo bên ngực nói chắc nịch:
- Tao còn!
- Bao nhiêu?
- 75 đồng!
- Đủ để về tới Đức Phổ không?
- Mình về Đập Đá. Nhà chị Hai tao ở đó.
Tôi gật đầu đồng ý. Thằng Minh nói tiếp:
- Tối nay tới phiên tao gác từ 10 đến 12 giờ. Mày chuẩn bị mọi thứ, ngủ sớm, chừng nào tao kêu thì dậy đi!
 
Đêm đó, sau khi họp tiểu đội xong, tôi mắc mùng đi ngủ sớm. Tôi cởi đôi giày để bên mép phản thay vì để ở cuối đuôi phản như mọi hôm để dậy khỏi mang nhầm giày đồng chí ngủ cạnh bên. Tôi nằm vắt tay lên trán suy nghĩ. Thật ra, trong lòng tôi nửa muốn đào ngũ, nửa muốn ở lại. Ba tiếng ‘lính đào ngũ’ mới nghĩ đến thôi đã cảm thấy ê cả mặt. Nhưng ở lại bị đưa sang Campuchia đánh giặc thì cũng lo lo. Hình ảnh mấy anh thương binh tay chân mặt mũi băng bó trắng toát trên đoàn xe ngược chiêu ở đèo An Khê lại hiện ra trong đầu tôi. Tôi nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi.

 


Mở ngoặc. Bây giờ sau một khoảng thời gian khá dài quay nhìn lại việc mình đã làm cách đây ba mươi chín năm, tôi không còn cảm thấy xấu hổ nữa. Không phải là tôi thanh minh đẻ chữa thẹn cho mình, nhưng nhìn vào thực tế những gì bây giờ chúng ta thấy, hiển nhiên nó là vậy. Chính quyền Campuchia do cộng sản Việt Nam dựng lên là một chính quyền ăn cháo đá bát. Hàng vạn xương máu của trai tráng Việt Nam đã đổ xuống oan uổng trên một đất nước xa lạ cũng bởi cái “tinh thần quốc tế vô sản” chết tiệt. Nếu như ngày đó biên giới nước ta bị giặc ngoại xâm tấn công mà chúng tôi lại bỏ chạy mới là việc làm xấu hổ. Còn như vì cái ảo tưởng ‘bách chiến bách thắng’ của một đảng cai trị mà không tiếc sinh mạng của thanh niên thì đó lại là chuyện khác. Chỉ nói riêng trong chiến dịch mùa khô 1983-1984, Sư đoàn 2 đã bị hao tổn nguyên khí nghiêm trọng. Đại ta Tư lệnh sư đoàn Trương Hồng Anh (người Bình Sơn, Quảng Ngãi) tử trận trong một lần thị sát cao điểm 579. Trung đoàn Ba Gia thương vong nặng nề, sau chiến dịch phải rút về Việt Nam để bổ sung quân số. Đóng ngoặc.
 
Tôi đang mơ mơ màng màng thì nghe có tiếng người gọi khe khẽ:
- Thư! ... Thư! ...
Tôi mở bừng mắt. Gương mặt thằng Minh ghé sát mặt tôi. Tay nó lay lay vai tôi.
- Dậy! ... Dậy! ...
 
Tôi ngồi bật dậy. Tỉnh hẳn người và nhớ ngay ra là đêm nay hai đứa định bỏ trốn. Tôi nhoài người về phía cuối chỗ nằm, nơi vẫn thường để sẵn đôi giày. Không thấy giày đâu! Tôi quên khuấy trước khi đi ngủ đã di chuyền chúng sang phía bên tấm phảng! Thằng Minh đang bước ra cửa lán. Tôi lật đật nhảy xuống đất bước theo nó. Đi qua cửa lán, dưới ánh trăng lờ mờ, tôi thấy thằng Minh khoác trên vai khẩu AK. Hơi lạnh ngoài trời làm tôi tỉnh táo hẳn. Tôi liền bảo nó:
 
- Để súng lại!
Nó lưỡng lự. Tôi gắt khẽ:
- Mang theo súng sẽ bị truy đuổi vì tội ăn cắp vũ khí!
Thằng Minh nghe nói thế lập tức đem súng để ngay vào giá. Chúng tôi đí qua lán của Trung đội trưởng về hướng bờ suối. Một ánh đèn pin từ dãy lán đầu kia quét ngược lên. Hai đứa đứng lại. Có tiếng của Đại đội phó:
- Các đồng chí đang gác đấy à? Tỉnh táo nhé!
Chúng tôi đồng thanh đáp lại:
- Dạ vâng!... Thưa thủ trưởng!
 
Chờ cho C phó đi khuất lán trại, chúng tôi tiếp tục tiến ra bờ suối. Con suối này rộng khoảng mười mét. Chỗ lội, nước chỉ chừng nửa ống quyển, dưới đáy đầy đá cuội, hai đầu trên và dưới con suối nước sâu hơn, trong veo. Chiều chiều khi đi tập về chúng tôi thường ra đây để tắm. Qua khỏi suối là một khoảng đất có những bụi lùm thấp, rồi đến một khu rừng. Chúng tôi chưa bao giờ đi qua khỏi khu rừng đó nên khong biết con đường mòn băng qua suối dẫn đến đau.
 
Tiếng bước chân lội bì bõm của hai đứa khiến bọn tôi bắt đầu lo lắng, càng bước nhanh tiếng lội nước càng to. Chỉ có quãng đường mười mét mà như dài cả cây số. Lội vừa hết con suối hai đứa liền cắm cổ chạy thục mạng về phía khu rừng. Lúc này tôi mới biết không mang giày là một điều tai hại. Đôi vớ tôi mang lúc ngủ ướt sũng nước, chảy xệ khiến bước đi khó khăn vô cùng. Tôi cởi ra, quăng vào bụi cây bên đường. Đi dọc theo lối mòn một đoạn, tôi bảo thằng Minh rẽ phải vào khu rừng. Vì lo sợ cứ đi trên đường, có người đuổi theo sau ắt sẽ bắt gặp. Dường như nó cũng toan tính như tôi, nên vừa nghe nói đã làm ngay. Hai đứa tôi mệt thì đi, khỏe thì chạy trong khu rừng đêm suốt mấy tiếng đồng hồ. Lá khô củi mục kêu lạo xạo dưới chân. Vầng trăng hạ tuần bị những đám mây che lúc tỏ lúc mờ. Cây cối lùm bụi đen ngòm chập chờn, đầy vẻ ma quái, âm u. Bọn tôi lo đào tẩu nên không còn tâm trí đâu để mà lo sợ yêu ma hay thú dữ rình rập. Ra khỏi khu rừng một quãng chúng tôi phát hiện một con đường nhỏ bên bờ vực sâu. Đi theo lối này hai đứa lần mò đến cái bản nhỏ của người Thượng. Bản này chỉ có năm bảy căn nhà sàn cất cách xa nhau, dọc theo bờ vực. Nhà nào cũng cắm một hàng chông tre nhọn hoắc ngăn cách con đường mòn với vườn rau trước nhà. Chúng tôi cố gắng bước đi thật nhanh và không gây tiếng động để tránh làm thức giấc đồng bào trong bản. Rất may là cả bản không nuôi chó.
 
Đi khỏi bản thượng lại đến một khu rừng cây lá thưa thớt. Cuối khoảng rừng là một vùng đất trống mênh mông không nhìn thấy đường xá, cũng chẳng có lối mòn. Tôi hỏi thằng Minh:
 
- Đi hướng nào bây giờ?
 
Nó cũng chẳng biết trả lời sao. Bất chợt tôi cảm thấy đôi bàn chân đau nhói. Thì ra lúc chạy qua cánh rừng, đôi chân tôi đã dẫm đạp lên nhiều cành cây khô nên bị trầy xước chảy máu. Tôi cố nhịn đau bước cho kịp thằng Mình. Dưới ánh trăng thấy bóng mình ngả về phía trước. Một ý nghĩ lóe sáng trong đầu tôi, tôi nói với thằng Minh. 
 
- Cứ đi theo hướng cái bóng của mình là sẽ về tới đồng bằng! Thằng Minh dường như cũng vừa ngộ ra, nó gật đàu tán thành. Tôi chỉ nói đại thôi chứ cũng không dám chắc, vì chẳng biết chị Hằng có lặn đúng về hướng chánh tây hay không. Nhưng đó là hướng đi duy nhất để chọn lựa trong lúc này.
 
Đi gần hết quãng đồng không mông quạnh thì trời cũng đã gần sáng. Nhìn xa xa, dường như có một xóm nhà. Đi một lát nữa, chúng tôi nhìn thấy có một ánh đèn hay bếp lửa gì đó lập lòe ở một ngôi nhà đầu xóm. Lúc này, cả hai đứa đều mặc quân phục, nếu vào xóm chẳng khác gì để cho người ta biết mình là lính đào ngũ. Chúng tôi bàn nhau tìm đến cái nhà có ánh đèn kia để đổi quần áo.
Vừa bước đến cái cổng làm bằng tre của ngôi nhà, thì người đàn ông đang đứng trong sân tập thể dục bước ra mở cửa cho chúng tôi vào. Hình như ông ta đã quá quen thuộc với cảnh ‘bộ đội cụ Hồ’ xuất hiện đột ngột như thế này. Không đợi chúng tôi mở miệng ông ta đã cất lời hỏi:
 
- Các anh muốn đổi quần áo?
 
Chúng tôi gật đầu. Ông trở vào nhà. Lát sau mang ra hai bộ quần áo cũ đưa cho Minh và tôi. Hai đứa đi lại cái đống rơm cạnh chuồng bò để thay đồ. Thằng Minh được một bộ đồ còn khá tốt. Chiếc áo ca-rô màu đỏ sẫm dài tay. Cái quần tây màu xanh đen. Chiếc áo của tôi thì cộc tay màu trắng nhưng đã ố vàng. Cái quần màu tiết đông cũ rích. Khi chúng tôi đưa hai bộ đồ ka-ki gần như còn mới toanh, ông chủ nhà cầm lấy nhìn thằng Minh và hỏi nó có muốn đổi đôi giày không. Thằng Minh đồng ý. Ông ta lại đi vào nhà đem ra một đôi dép râu. Thằng Minh cởi giày đưa cho ông ấy, còn đôi vớ thì đưa cho tôi mang. Tôi hỏi ông kia xin một đôi dép cũ, nhưng ông ta lắc đầu. Tôi chỉ cái nón cối màu xanh có ngôi sao đỏ trên đầu thằng Minh. Nó hiểu ý cởi nón đưa cho ông ta. Ông cầm lấy đem vào nhà, rồi đem ra một cái nón cời đưa cho thằng Minh. Chúng tôi cảm thấy khát nước nên xin một ca nước lạnh để uống. Thằng Minh đội cái nón cời lên đầu. Chúng tôi bước ra khỏi sân nhà. Lúc đi qua cánh cổng, không biết nghĩ sao thằng Minh cởi cái nón quăng lên hàng rào.
 
Đã đổi hình thay dạng, chúng tôi thản nhiên theo con đường chính đi ra khỏi xóm nhà. Lúc đi đến giữa xóm thì trời đã sáng rõ. Bên đường đi bắt gặp một nhà đang có hỉ sự. Cái cổng được uốn cong bằng một tàu lá dừa chẻ đôi. Trên cổng có hàng chữ “Vu quy” được cắt bằng giấy màu đỏ. Tôi nói với Minh:
 
- Mày làm bài thơ chúc phúc, rồi tao với mày vào đâychúc mừng cô dâu để xin ăn chực một bữa đi!
Thằng Minh bật cười khà khà.




Chúng tôi theo trục đường chính đi hết cái xóm nhỏ, lại băng qua một vùng đất trống nữa thì gặp ngay con đường trải nhựa. Chẳng biết có phải là đường Quốc lộ 19 hay không, nhưng thấy nó chạy theo chiều mặt trời mọc và mặt trời lặn nên nhằm theo hướng mặt trời đang lên mà đi. Đi một đoạn cũng chẳng gặp chiếc xe nào để về xuôi. Trong lòng bọn tôi bỗng dưng có  dự cảm không ổn. Nếu lỡ đơn vị phát hiện có người đào ngũ cho xe đuổi theo thì nguy to. Nghĩ thế, hai đứa vội đi băng qua đường, rồi đi xa một đoạn nữa về hướng Nam.  Cũng may là đi thêm chừng vài kilomet thì bắt gặp con đường mòn chạy song song với con lộ. Lúc bấy giờ mặt trời đã lên cao. Suốt nửa đêm và nửa ngày chạy trốn bụng dạ tôi lên cơn cồn cào dữ dội. Tôi có tật xấu chứng đói, nhịn ăn lâu là tay chân run rẩy. Đúng lúc đó nhìn thấy một trái bắp khô bị bánh xe bò cán bẹp dí trên nền đường đất đỏ, tôi cúi xuống nhặt lên, phủi bụi đất,  và lảy vài hột cho vào miệng nhai ngon lành. Đưa phần còn lại cho thằng Minh, nhưng nó không lấy. Tôi từ từ ăn hết cả trái bắp.

Con đường mòn hướng về phía đông, nhưng lại chạy lên khu đồi tranh.  Lúc đến chân đồi chúng tôi gặp được chị người Thượng đang gánh một gánh tranh nặng trĩu đi ngược chiều. Chúng tôi dừng lại hỏi thăm đường về xuôi. Nhưng chị lắc đầu tỏ vẻ không biết. Không ngờ chị lại ngó thấy đôi chân tôi rướm máu, bước đi khập khừng, liền cởi đôi dép cao su đang mang, đưa cho tôi. Tôi không nhân, nhưng chị quyết cho nên không lấy lại mà gánh gánh tranh đi nhanh xuống đồi. Chị ấy đội nón lá, chiếc khăn màu trắng che kín cả mặt chỉ chừa lại đôi mắt nên tôi cũng không  biết ân nhân của mình mặt mũi ra sao. Tôi chỉ còn biết rối rít nói tiếng cảm ơn phía sau lưng chị.

Minh và tôi đi lên đồi tranh. Trời đang giữa trưa, hôm nay lại nắng chang chang. Khắp chung quanh, rừng tranh ngút ngàn. Một màu vàng úa của lá tranh lan xa tưởng chừng vô tận. Cỏ tranh có chỗ cao lên tới ngực. Con đường đến đây cũng hết.  Mặt trời đang đứng bóng, không một chút gió. Nóng hầm hập.  Chúng tôi mất phương hướng trong  rừng tranh bạt ngàn.

Sau một hồi đi lung tung cũng không cách nào thoát ra khỏi ma trận của rừng tranh, tôi tuyệt vọng, tìm một khoảng đất trống ngồi nghỉ mệt. Đói và khát. Hai đứa im lặng, chẳng ai nói với ai điều gì. Ngồi nghỉ một lát, người đã dễ chịu tôi bảo thằng Mình:

- Mày nhìn xung quanh xem có cái cây cao nào không.

Nó đảo mắt nhìn quanh, rồi chỉ cho tôi thấy, không xa lắm có một cái cây dường như đã chết khô, có hai nhánh chọc thẳng lên trời. Tôi bảo nó tiến về phía đó. Đến nơi thì ra cái cây rụng lá chứ không phải chết. Tôi trèo lên cây và nhìn khắp nơi. Phía xa, gần một khu rừng, dường như có một con đường đất đỏ. Một chiếc xe ben chở gỗ từ trong rừng chạy ra. Tôi mừng quá reo to lên, kêu thằng Minh trèo lên chỉ cho nó thấy. Hai đứa tôi rẽ tranh, lao về hướng đó. May mà tôi có đôi dép của chị người Thượng cho. Nếu không, băng qua đồi tranh ấy cũng là một điều gian nan.

Con đường đất đỏ rất rộng, dấu vết xe chằng chịt. Có lẽ là lối chuyển gỗ về xuôi của một lâm trường nào đó. Nghĩ vậy, hai đứa cứ lặng lẽ đi bước đi. Trời phật phù hộ làm sao, cuối cùng con đường ấy lại dẫn ra Quốc lộ 19. Lần này thì chúng tôi quyết bám sát con lộ, không đi quá xa nữa.

Trời đã xế chiều, chúng tôi đi ngang qua một khu ruộng trồng khoai lang, hai đứa liền đào trộm mấy cũ, đem xuống bờ mương tửa sạch và ăn ngấu nghiến. Ăn xong lấy hai bàn tay làm gáo bụm nước mà uống.

Tiếp tục đi. Đến chạng vạng, chúng tôi lại gặp một thôn trang. Hai đứa đi vào làng đó đẻ tìm cái gì ăn cho đỡ đói. Chẳng bao lâu đã trông thấy trước sân một căn nhà có mấy cái vĩ tre thường dùng để phơi bánh tráng. Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, hai đứa xô cổng bước vào. Chó sủa. Một chị phụ nữ xuất hiện bên cánh cửa chái bếp. Thằng Minh hỏi có bán bánh tráng không. Người đàn bà gật đầu. Chúng tôi ngỏ ý muốn mua ăn tại chỗ. Chị cho chúng tôi vào nhà. Thằng Minh kêu bốn cái bánh tráng và xin một chén nước mắm. Tuy bữa ăn quá đơn giản nhưng hôm ấy chúng tôi cảm thấy sao mà ngon lạ lùng.

Uống xong bát nước chè, Minh hỏi đường đến đèo An Khê, Chị chủ nhà cho biết nơi đây cách không xa trạm gác Song An là mấy. Nghe nói thế bọn tôi mừng muốn reo lên, nhưng cố kìm lại. Thời đó để áp dụng chính sách ‘tự cung tự cấp’ mỗi cửa ngõ giao thông của các tỉnh đều có trạm gác của công an kinh tế, chuyên bắt những người vận chuyển hàng hóa bất hợp pháp.  Trạm Song An thuộc tỉnh Gia Lai – Kon Tum  ngay sát chân đốc đèo An Khê. Qua khỏi đèo thuộc tỉnh Nghĩa-Bình có trạm Phú Phong.

Chúng tôi rời lò bán bánh tráng thì trời đã tối. Một cơn mưa nhỏ khiến hai đứa lạnh run. Men theo rìa phía Nam đường Quốc lộ 19, chúng tôi đến trước trạm Song An vào lúc khoảng mười giờ đêm. Còn sơm, qua trạm rất dễ bị phát hiện. Hai đứa vào một khu rừng thông để trú mưa và cũng để chợp mắt một lát, chờ nửa đêm mới vượt trạm. Chúng tôi chui vào một gốc cây thông rậm, ngồi cúi đầu bó gối chờ thời gian trôi qua chớ không sao ngủ được. Nhìn xéo qua bên kia mé lộ thấy ngọn đèn của trạm gác vẫn còn chong sáng trưng. Lâu lâu lại có một chiếc xe bị dừng lại để kiểm tra hàng hóa.

Không biết phải chờ đợi bao lâu, thằng Minh nóng ruột bảo tôi:

- Mình đi thôi! Trời mưa thế này họ không nhìn thấy mình đâu.

Tôi nghe nó nói cũng có lý. Hai đứa lò dò, khom lưng, cúi đầu thật thấp men theo các lùm bụi tiến về chân đèo An Khê. Lên đến nửa dốc thì cả hai đuối sức, Hai thằng tìm một gốc thông rậm rạp để núp vào bàn tính.  Vượt đèo nửa đêm thì không dám. Đợi đến sáng mới qua đèo dễ gặp cảnh binh đón lỏng bắt về. Cách nào cũng không được! Suy đi tính lại chỉ còn chờ trời sáng đón xe đò từ Kon Tum về Quy Nhơn là khả thi.

Nửa đêm canh khuya hai thằng con trai ngồi dựa vai nhau ở một dốc đèo hoang vắng, âm u, không một ánh đèn, không một tiếng dế kêu. Trời lại mưa lâm râm khiến đứa nào cũng cảm thấy buồn đến não ruột. Chốc chốc bọn tôi lại đứng lên nhìn về phía cuối đèo mong chờ một ánh đèn xe.

Khoảng ba bốn giờ sáng, đột nhiên phía dưới chân đèo có hai đốm đèn pha quét sáng rực. Thằng Minh reo lên:

- Có xe rồi! Ra đón mau!

Tôi đi trước ra bìa lộ, lòng mừng khấp khởi, nó đi sau. Tôi giơ tây vẫy vẫy ra hiệu dừng xe. Chiếc xe thắng lại, ngọn đèn pha chiếu vào mặt tôi sáng lòa khiến tôi không nhìn thấy gì. Tôi bước né sang một chút. Chiếc xe đen sì, dừng cách tôi khoảng  mười mét. Một người mở cánh cưả xe bên phía tài xế đi vòng ra sau xe rồi giơ khẩu súng trường về phía chúng tôi, cất tiếng quát:

- Tại sao lại chận xe?

Tôi nói lớn:

- Bọn em đón xe về Quy Nhơn.

Người kia hỏi tiếp:

- Ở đơn vị nào?

Đầu óc tôi lúc đó tự dưng nhạy bén hẳn lên, những suy nghĩ thoáng qua nhanh như chớp. Không thể nói là lính Sư 2. Tôi vụt nhớ mỗi lần đi tắm ở con suối cạnh doanh trại, nghe loáng thoáng cái tên Nông trường Hà Tam. Tôi vội trả lời:

- Công nhân nông trường Hà Tam.

Chợt tôi nghe trong xe có giọng nói nhỏ nhưng già dặn, rắn rỏi, rõ ràng:

- Lính Sư 2 đào ngũ chứ công nhân gì! - Nói rồi ông ta bảo người kia lên xe.

Chiếc xe chồm lên, rồi lao vào màn đêm. Đến lúc này thì tôi mới nhận ra đó là một chiếc xe jeep quân đội! Tôi và thằng Minh sợ điếng hồn. Hai đứa vội chạy lại gốc cây thông núp vào đấy. Chừng mười lăm phút sau, mọi chuyện tưởng đâu êm xuôi, bỗng dưng tôi nghe tiếng quát:

- Giơ tay lên!

Tôi đảo mắt nhìn quanh, trời lúc này đã tạnh mưa, nhưng vẫn còn tối đen. Người kia lại quát lên, lần này to và gần hơn:

- Giơ tay lên! Không tao bắn!

Tôi vội vàng giơ hai tây lên trời. Người kia lại ra lệnh:

- Đứng dậy bước ra ngoài!

Tôi ngoan ngoãn làm theo.

- Còn thằng nữa đâu?

- Không ngoái đầu lại, tôi nói:

- Nó mới ở đây mà!

Giọng người kia đanh thép:

- Không bước ra là tao bắn!

Đến bây giờ thằng Minh mới từ trong gốc thông bước ra, hai tay giơ cao.

Thấy hai đứa tôi răm rắp làm theo, và trong tay không có vũ khí nên người kia cũng dịu giọng:

 

- Đi ra đứng cạnh lề đường!

Chúng tôi ngoan ngoãn vâng lời. Người kia hỏi:

- Bọn mày làm gì ở đây?

Thấy thằng Minh im re không nói lời nào, tôi vội lên tiếng:

- Bọn em là công nhân Nông trường Hà Tam. Bọn em về quê ăn Tết ít hôm rồi lên.

Không biết người kia có tin hay không, nhưng tôi chẳng nghe anh ta hỏi gì thêm, Cũng may là chúng rôi đã mặc bồ đồ thường dân. Chỉ có cái đầu hớt ba phân chẳng biết có làm lộ tẩy không. Bây giờ trời đã tờ mờ sáng. Tôi đưa mắt quan sát. Thì ra có hai người chứ không phải một. Một người bên tả, một người bên hữu. Họ từ dốc đèo đi xuống. Hai khẩu súng trường chỉa nòng về phía chúng tôi. Trên bắp tay trái mỗi người có cột một miếng vải đỏ. Đúng là cảnh binh của sư đoàn! Không hiểu sao hôm ấy tôi rất nhanh nhảu mồm miệng. Thấy họ im lặng tôi van vỉ:

- Các anh tha cho bọn em đi!

Tưởng đâu anh cảnh binh phớt lờ câu van nài của tôi, không ngờ anh ta lại hỏi:

- Quê ở đâu?

- Bọn em quê Quảng Ngãi.

Im lặng một lát anh ta cho biết:

- Bọn bây không thoát được đâu. Bên kia đèo cảnh binh đang tuần tra. – Anh ta chỉ một phiến đá bên cạnh, bảo chúng tôi tới ngồi yên chỗ đấy.

Lúc này, tôi mới bắt đầu hoảng loạn. Nghĩ tới bị đưa về cho Tring đội trưởng làm ‘bao cát’ tập võ tự do lòng tôi ngán ngẩm. Thằng Minh thì từ lúc nào nó đã câm như hến. Tôi chỉ còn biết im lặng, kê tay gục mặt trên phiến đá.

 31/7/2022

 

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.